TRAO ĐỔI VỀ BÀI VIẾT CÓ MỘT DÒNG SÔNG NHƯ THẾ


 

 

 

         TRAO ĐỔI VỀ BÀI VIẾT CÓ MỘT DÒNG SÔNG NHƯ THẾ

 

      

 

 

Trong một chuyến về thăm quê hương, nhờ trang Web Trần Nhương tôi đã quen biết nhà thơ, họa sĩ Trần Nhương (chủ trang Web). Nhà thơ kiêm họa sĩ này rất cởi mở, vui vẻ, và nhiệt tình giúp tôi có dịp gặp gỡ, trò chuyện với các nhà văn, nhà thơ Việt Nam trong đó có nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ Tịch Hội Nhà Văn Việt Nam.

 

Biết quê vợ tôi ở Đồ Sơn, anh Trần Nhương đã mách nước cho tôi đến tìm gặp một nhà thơ nổi tiếng của Hải Phòng, làm chủ khách sạn Hoa Thành Đạt đồ sộ ở Đồ Sơn, nhà thơ Trịnh Anh Đạt.

 

Trịnh Anh Đạt và tôi đã mau chóng vượt qua được cái hàng rào xã giao khô cứng. Chúng tôi có nhiều buổi ngồi uống chè Núi Đối nói chuyện thơ, đọc và nghe thơ của nhau. Hai anh em đã thân nhau và trao đổi với nhau khá nhiều điều sâu kín. Qua Trịnh Anh Đạt tôi nhận được giấy mời tham dự ngày thơ Nguyên Tiêu và gặp, trò chuyện với một số nhà thơ trong Hội Nhà Văn Việt Nam. 

 

Rời các sân thơ Văn Miếu tôi may mắn được tháp tùng một nhóm các nhà thơ miền Bắc đi ăn khuya. Bên chén chè, ly rượu các anh đã cho phép tôi bước vào khung trời thơ rất riêng tư, rất chân thật của mỗi người. Sau đó, nhân cuộc triển lãm mỹ thuật của một số họa sĩ Hải Phòng tôi lại được gặp các anh một lần nữa.

 

Những cuộc trò chuyện bên lề này đã giúp tôi vỡ lẽ ra nhiều điều thú vị; sự hiểu biết về thơ ca của tôi cũng được mở rộng thêm. Tôi đã được các tác giả tặng nhiều tập văn, thơ có giá trị tham khảo.  Anh Đạt cũng cho tôi một phần khá nhiều trong số thơ anh sưu tập. Và đặc biệt, anh đã cao hứng viết tặng tôi một bài thơ kỷ niệm Ngày Thơ Nguyên Tiêu tại Văn Miếu.

 

                             PHÚT  BÌNH  YÊN  VĂN  MIẾU

 

                   (Tặng Phạm Đức Nhì, nhà thơ Mỹ gốc Việt)

 

                   Anh từ Texas về đây

                   Bạn thơ dang rộng vòng tay đón chào

                   Bỏ qua thủ tục ngoại giao

                   Toàn thằng lính trận thuở nào choảng nhau!

 

                   Người mẻ trán, kẻ sứt đầu

                   Trở giời trái gió ngấm đau một mình

                   Duyên thơ nối nhịp ân tình

                   Rời tay súng, chẳng phải rình rập ai

 

                   Vào nơi trọng dụng hiền tài

                   Qua Khuê Văn Các sánh vai cùng người

                   Thơ hay vụt thả đỏ trời

                   Rưng rưng ánh mắt rạng ngời lửa thiêng!

 

                   Vượt lên giông bão trăm miền

                   Quê hương ơi! Phút bình yên diệu kỳ!

 

                                      Văn Miếu Quốc Tử Giám

                                      Nguyên Tiêu Canh Dần

                                      Trịnh Anh Đạt

 

Sau khi tôi trở về Mỹ, anh Đạt và tôi cũng thỉnh thoảng điện thoại thông báo cho nhau những nét mới trong sinh hoạt văn học ở trong nước và hải ngoại. Tháng 10 năm 2010 gia đình anh Đạt qua Mỹ dự lễ cưới của con gái ở California. Sau khi chu du vài thành phố có đông người Việt tỵ nạn anh Đạt gọi điện thoại hỏi tôi:

 

“Chiến tranh đã chấm dứt hơn 30 năm mà sao người Việt hải ngoại vẫn còn ác cảm, vẫn đối đầu với những người Cộng Sản?”

 

Tình cảm của anh Đạt dành cho tôi sâu đậm như thế nên tôi thấy mình có bổn phận phải cho anh câu trả lời thành thật.

 

     Sau 30/4 /1975 chính sách cải tạo đã làm cho người dân miền Nam ngỡ ngàng choáng váng. Sau kỳ hạn 2 tháng, rồi 3 năm, hàng trăm ngàn cựu quân nhân, viên chức chính quyền miền Nam vẫn  biền biệt không về, vẫn còn phải chịu đọa đày trong các trại tập trung rải rác khắp nơi trên đất nước. Lúc đó gia đình những người đi cải tạo mới biết mình bị lừa.

 

Sự lừa dối ấy, cùng với những hệ quả đau thương khác của chính sách cải tạo, dường như đã đâm một nhát dao vào ngực người dân miền Nam, đã đào một con sông ngăn cách lòng người Nam Bắc. Vết thương ấy giờ vẫn còn đang rỉ máu; con sông ấy giờ vẫn còn rất rộng và chưa có cầu nối liền hai bờ. Và tôi viết tiếp câu trả lời bằng một bài thơ.

 

 

        BỜ  VẪN  QUÁ   XA

 

  (Trả lời một người bạn)

(Tặng bạn thơ Trịnh Anh Đạt và cô vợ người Hoa)

 

Tôi, người lính Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù

năm 75, 29 tháng tư

khi đoàn tàu chở đơn vị tôi

chuẩn bị rời Vũng Tàu hướng ra Đông Hải

thương cha mẹ già, đàn em dại

tôi bước lên bờ

ở lại quê hương

 

Nhưng cha mẹ già chưa được gặp

cũng chưa thấy mặt đàn em

các anh, những người chiến thắng

súng dí sau lưng

đẩy tôi vào trại tập trung

 

Rồi bằng những lời dối trá

trái tim vô tình

tia nhìn thù hận

các anh cướp mất của tôi

những tháng năm đẹp nhất cuộc đời

 

Tôi có người bạn

đói lòng moi mấy củ khoai

các anh đập nát xương bàn tay

mãi mãi mang thương tật

 

Một người khác

lâu ngày thèm thịt

chụp vội con nhái bên đường

bỏ vào mồm nuốt chửng

báng súng AK

các anh lao vào ngực, vào bụng

cho đến khi con nhái phòi ra

con nhái lúc vào màu xanh

lúc ra thành màu đỏ

 

Tôi trở về trên đôi nạng gỗ

nhìn nhà dột, cột lung lay

cha chết đọa đày

các em tứ tán

mẹ tuổi già, sức yếu

vẫn giãi nắng, dầm sương

tôi cắn răng lìa bỏ quê hương

tìm sự sống

 

Trở về thăm quê mấy lần

trên đường từ Nam ra Bắc

tôi cũng đôi khi nếm được

chút dư vị của chiến tranh

 

Tôi gặp cả thương binh

từ hai phía

kẻ chống nạng, người ngồi xe lăn

kẻ mất tay, người sẹo đầu, vẹo cổ

 

Họ buồn tủi vì phải sống đời nghèo khổ

nhưng không thấy ai lên tiếng oán hờn

với họ, giữa chiến trường

“chuyện thường tình mũi tên hòn đạn.”

 

Ở Mỹ, tôi quen vợ chồng người Hoa

vợ cô giáo, chồng luật sư

yêu nhau tha thiết

nhưng định mệnh trớ trêu, oan nghiệt

cô vợ bị hiếp dâm

ít lâu sau đẻ thằng con

đen như cột nhà cháy

 

Anh chồng ôm mặt khóc như điên như dại

chạy ra khỏi phòng sanh

vợ tay nắm chặt thành giường

ngất lịm

 

Trở về nhà

cô vợ trẻ người Hoa

đã có thể gạt nước mắt

cho đi đứa con khác màu da

để mỗi ngày người chồng

khỏi thấy vết thương lòng

bị chà đi, xát lại

 

Nhưng các bạn tôi

làm sao có thể chặt bỏ bàn tay của mình?

làm sao có thể cắt bỏ lá phổi của mình?

nên mỗi lúc trở trời,

đau đớn

lại nhớ đến các anh

 

Không giống những thương binh

(mũi tên hòn đạn vô tình)

các bạn tôi mang thương tật

bởi đôi tay độc ác

bởi trái tim độc ác

của các anh

 

Sau chiến tranh

đối xử với những người ở bên kia chiến tuyến

nhưng cùng tiếng nói, màu da

biết bao phương cách đưa ra

các anh chọn phương cách tàn độc nhất

 

Các anh đã tự đào dòng sông ngăn cách

nay lại ngồi chễm chệ trên bờ

í ới vẫy chúng tôi qua

tiếc rằng…… bờ vẫn… quá xa.

 

Thấy tôi mon men ở bên này bờ sông Trịnh Anh Đạt đã lội ra đón tôi ở giữa dòng. Cứ mỗi dạo ngồi bên nhau uống chè nói chuyện thơ, dòng sông ấy trong tôi lại hẹp đi một ít. Một lần tôi ngồi ăn kẹo, uống chè với anh Đạt và vợ anh, chị Hoa, nói chuyện tình yêu, gia đình, nuôi dạy con cái, không khí thật đầm ấm, vui vẻ.

 

Tôi có cảm giác như mình đang ngồi trong nhà mình, trò chuyện với những người thân trong gia đình mình. Lúc ấy dòng sông trong lòng tôi cứ hẹp dần, hẹp dần. Cuối cùng chỉ còn như sợi tơ óng ánh trên mặt đất.

 

Tiếc thay, còn quá ít Trịnh Anh Đạt, quá ít Trần Nhương. Và vẫn chưa ai nghĩ đến chuyện bắc cầu. Hình như họ còn chưa biết, hoặc chưa muốn công nhận, đã hiện hữu một dòng sông như thế.

 

Viết xong tháng chạp năm Canh Dần (tháng 1 năm 2011)

                             Phạm Đức Nhì

 

 

 

Sau đây là một số trao đổi với các văn thi hữu liên quan đến bài viết.


Thư của NAL gởi Phạm Đức Nhì


Thưa anh Phạm Đức Nhì,

Trích trong bài Có Một giòng Sông Như Thế (Phần chữ mầu tím là của NAL)

 

       Trong một chuyến về thăm quê hương, nhờ trang Web Trần Nhương tôi đã quen biết nhà thơ, họa sĩ Trần Nhương (chủ trang Web). Nhà thơ kiêm họa sĩ này rất cởi mở, vui vẻ, và nhiệt tình giúp tôi có dịp gặp gỡ, trò chuyện với các nhà văn, nhà thơ Việt Nam trong đó có nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ Tịch Hội Nhà Văn Việt Nam. (Ông Hữu Thỉnh này có phải là Tố Hữu hay Nguyễn đình Thi thời nay không nhỉ?)

 

Vượt lên giông bão trăm miền

Quê hương ơi! Phút bình yên diệu kỳ!

(Kỳ diệu thật, quê hương yên bình dân mình sung sướng an vui?)

 

 

 Qua Trịnh Anh Đạt tôi nhận được giấy mời tham dự ngày thơ Nguyên Tiêu và gặp, trò chuyện với một số nhà thơ trong Hội Nhà Văn Việt Nam. Rời các sân thơ Văn Miếu tôi may mắn được tháp tùng một nhóm các nhà thơ miền Bắc đi ăn khuya. (Vui mừng nhận được giấy mời, may mắn quá, tháp tùng đi ăn...! Việt cộng nói ...cần xác định lập trường, tư tưởng, cán bộ luôn phải...học tập như vậy!)

 

Tháng 10 năm 2010 gia đình anh Đạt qua Mỹ dự lễ cưới của con gái ở California. Sau khi chu du vài thành phố có đông người Việt tỵ nạn anh Đạt gọi điện thoại hỏi tôi:

“Chiến tranh đã chấm dứt hơn 30 năm mà sao người Việt hải ngoại vẫn còn ác cảm, vẫn đối đầu với những người Cộng Sản?” (Anh Đạt này có phải là đảng viên hay Phó chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam không, đọc lại bài thấy anh là ...tư bản đỏ, thì rất ơn đảng?)

 

Duyên thơ nối nhịp ân tình

Rời tay súng, chẳng phải rình rập ai

 

Sau 30/4 /1975 chính sách cải tạo đã làm cho người dân miền Nam ngỡ ngàng choáng váng. Sau kỳ hạn 2 tháng, rồi 3 năm, hàng trăm ngàn cựu quân nhân, viên chức chính quyền miền Nam vẫn biền biệt không về, vẫn còn phải chịu đọa đày trong các trại tập trung rải rác khắp nơi trên đất nước. Lúc đó gia đình những người đi cải tạo mới biết mình bị lừa (Giá trước 1975 mà biết cộng sản là gì thì ...đỡ khổ, bây giờ vẫn còn nhiều người lơ mơ ...!)

 

Tiếc thay, còn quá ít Trịnh Anh Đạt, quá ít Trần Nhương (Thi sĩ Trần Nhương người đứng sát bên chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam, hội này rất quan trọng, trực thuộc Ban ...Văn hóa Tư tưởng  của Trung Ương đấy! Anh Đạt thì là ...nhà thơ, chủ khách sạn, phải giầu có lắm, luôn luôn hồ hởi, phấn khởi ơn Đảng, cởi mở, vui vẻ, nhiệt tình, kết thân với anh Phạm Đức Nhì khiến anh Nhì rất ...cảm động vì tình bạn mới !)

 

Kính gửi anh Phạm Đức Nhì

 

Bài thơ Bờ Vẫn Quá Xa, tôi  đọc rất cảm kích nhưng Người Lính Dù Lữ Đoàn 1 mà đem tặng  bạn Trịnh Anh Đạt và Trần Nhương, tôi thấy uổng quá! Lòng tôi xót xa, cay đắng nghĩ rằng những người anh gọi là BẠN đó là những người đang có quyền lực hoặc đang được hưởng cuộc sống thoải mái, yên bình trong chế độ Cộng sản. 

 

Họ đọc thơ anh sẽ không xúc động, không hiểu hay cố tình không hiểu những cay đắng xót xa, căm hờn, uất giận cùa người tỵ nạn. Là thi sĩ, anh mơ mộng, hoài bão sự hòa hợp, đổi thay của con người, nhưng làm sao được với những người không tim, không óc?!

NAL

 

 

 

 

TRẢ  LỜI  ANH  NAL

 

Anh L kính mến,

 

Trước hết, xin được cám ơn anh đã đọc và bình phẩm bài viết Có Một Dòng Sông Như Thế của tôi. Anh và tôi tuy chưa được giới thiệu với nhau nhưng PĐ (một bạn thơ của tôi) rất quý mến và kính trọng anh nên tuy chưa quen anh, tôi đã lây cái niềm quý mến và kính trọng anh của PĐ. Hơn nữa, anh lại sinh hoạt chung với các anh chị, các bạn đã học chung trường Trung Học Ban Mê Thuột của tôi trong cái Quay-Club rất vui nhộn này nên tôi không có lý do gì để không đối thoại với anh thật tình và cởi mở.

 

Thưa anh L,

 

Gia đình tôi ở ngoại ô Sài Gòn, miền Nam, nhưng tôi lại lấy vợ miền Bắc trong lúc tìm đường vượt biên ở Đồ Sơn. Vì thế, mỗi lần về thăm quê hương, tôi về Nam, vợ tôi về Bắc (nhưng thường ở hai thời điểm khác nhau để còn có người ở lại chăm sóc con cái). Tết Canh Dần vừa qua, con cái đã lớn, tôi quyết định về quê vợ để có dịp ra la cà ở Hà Nội – cái nôi của văn học Việt Nam – thu thập tư liệu cho những bài viết về bình thơ của tôi.

 

Từ nước Mỹ tôi đã liên lạc, làm quen với nhà thơ Trần Nhương và hẹn gặp nhau ở Hà Nội. Anh Trần Nhương hứa sẽ đưa tôi đi những nơi cần thiết để thu thập tư liệu. Tôi lên Hà Nội mấy lần, được Trần Nhương đón ở bến xe, đưa về nhà ăn uống, nghỉ ngơi rồi cùng tôi bắt đầu cuộc hành trình đi tìm thơ.

 

Tôi đến trụ sở Hội Nhà Văn Việt Nam 6 lần và thường ngồi uống trà, tán gẫu ở văn phòng Tạp Chí Thơ. Tôi đã gặp, trò chuyện với hơn 20 nhà văn, nhà thơ miền Bắc đến lãnh nhuận bút hoặc đưa bài. Tôi đã gặp nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ Tịch HNVVN, và trò chuyện khoảng 20 phút.

 

Tôi cũng gặp Phó Chủ Tịch Nguyễn Trí Huân và Ủy Viên Ban Chấp Hành Nguyễn Hoa nhưng chỉ bắt tay chào hỏi chứ không có thì giờ nói chuyện. Riêng anh Ngô Thế Oanh, Phó Tổng Biên Tập Tạp Chí Thơ thì tôi có dịp trao đổi với anh về khuynh hướng sáng tác của thơ ca Việt Nam và cùng bình phẩm bài thơ Ngậm Ngùi của Huy Cận.

 

Tất cả các cuộc trò chuyện đều lịch sự, vui vẻ nhưng không vượt qua được cái hàng rào xã giao cứng ngắc. Họ giữ ý, tứ trong từng câu nói và lảng tránh khi đụng chạm đến những vấn đề nhạy cảm. Những điều tôi tìm hiểu vẫn chưa có câu trả lời, hoặc nếu có câu trả lời thì câu trả lời đó cũng chưa làm tôi thỏa mãn.

 

Tóm lại, cuộc hành trình đi tìm ý nghĩa thơ ở HNV của tôi đã thất bại. Nhưng bù lại, tôi đã gặp một tấm lòng, một tình bạn nồng ấm với Trần Nhương. Và sau đó là Trịnh Anh Đạt.

 

Ngày thơ Nguyên Tiêu các khuôn mặt thơ ca lớn đều tụ về Văn Miếu. Trịnh Anh Đạt giới thiệu tôi với Trần Đăng Khoa (từng là thần đồng thơ Việt Nam) tại sân thơ truyền thống trong Văn Miếu. Chúng tôi trò chuyện khoảng nửa tiếng rồi đi thưởng ngoạn thơ khắc trên gốm. Tôi cùng với khoảng 10 nhà thơ khác (kể cả Trịnh Anh Đạt) vừa đi vừa đọc và bình phẩm thơ ca rất vui vẻ.

 

Sau đó cả nhóm đi ăn khuya. Khoảng 11 giờ đêm tôi về khách sạn thì gặp một nhóm nhà thơ trẻ từ mọi miền đất nước tụ về - đông nhất là Huế . Tôi nhập bọn rồi cùng ăn cháo, uống trà và nói chuyện thơ đến 2 giờ sáng. Những cuộc trò chuyện bên lề kiểu này rất thích thú và bổ ích, giúp tôi vỡ lẽ ra nhiều điều.

 

Thưa anh L,

 

Và bây giờ tôi xin trả lời những câu hỏi của anh.

 

Ông Hữu Thỉnh có phải là Tố Hữu hay Nguyễn Đình Thi thời nay không nhỉ?

 

Phải thì sao? Không phải thì sao? Có liên quan gì đến việc tìm hiểu thơ ca của tôi? Tôi không giống như Vũ Thành An, tự nhận là “Vũ Thành An đã chết” để được sự chiếu cố của đám cán bộ coi tù. Đối diện với Hữu Thỉnh tôi vẫn hãnh diện là nhà thơ miền Nam, đã từng là nhà thơ chống cộng kiên cường, bây giờ là nhà thơ ở phía bên kia, có cái nhìn về quê hương đất nước rất khác với những người cộng sản.

 

Quê hương ơi! Phút bình yên diệu kỳ. (kỳ diệu thật, quê hương yên bình, dân mình sung sướng yên vui?)

 

Trịnh Anh Đạt viết như thế là vì những năm chiến tranh, tôi với anh là 2 thằng lính trực tiếp đối đầu nhau ở những trận đánh xung quanh mặt trận Quảng Trị, Huế, và sau này, Quảng Nam. Nay hai kẻ cựu thù sát vai nhau giữa văn miếu thả hồn vào những vần thơ, như thế không bình yên sao?

 

Còn dân mình sung sướng yên vui hay không thì lúc ấy có ăn nhập gì với cảm xúc của Trịnh Anh Đạt? Trung Học Ban Mê Thuột của tôi có một cựu học sinh (khóa 2 CTCT) cũng có cái lòng yêu nước thương dân rất kỳ lạ, giống anh. Trong tiệc cưới có lần, đến mục dạ vũ, anh ấy phàn nàn với tôi:

 

   “Dân mình còn đang lầm than, khổ cực ở bên kia, thế mà ở đây chúng nó còn đang tâm nhảy nhót, khiêu vũ. Thật đúng là bọn lòng lang dạ thú.”

 

Ơ hay! Cái anh này lạ thật! Chẳng lẽ vì dân mình đang lầm than khổ cực thì suốt đời mình cứ phải giữ bộ mặt âu sầu ảo não hay sao? Suốt đời mình không được bày tỏ sự vui mừng hay sao? Về sự kiện này tôi có làm một bài thơ (5 đoạn) mà chỉ dám trích cho anh xem một đoạn đầu thôi.

 

      Khi anh sờ vú em

      Nguyễn Văn Thiệu, Lê Duẩn, Trường Chinh

      Ai đã từng lừa dân hại nước?

      Anh đã quên, quên hết

Nặng lòng với quê hương dân tộc như anh thì khổ quá. Có lúc phải quên đi cho nhẹ gánh để hưởng lạc thú cuộc đời chứ.

 

(Vui mừng nhận được giấy mời, may mắn quá tháp tùng đi ăn. Việt cộng nói cần xác định lập trường, tư tưởng, cán bộ luôn phải…học tập như vậy)

 

Vâng! Đúng như vậy. Với tôi, được tháp tùng cả chục nhà thơ miền Bắc đi ăn khuya là một điều may mắn. Bởi lúc đã có vài ba ly “tửu nhập” thì “ngôn xuất” rất tự nhiên, không còn giữ ý, thủ thế nữa. Họ đọc thơ, phân tích rồi bình phẩm thật lòng, đáng khen thì khen, đáng chửi thì cũng chửi vung tít mẹt. Qua mấy lần nhậu như thế tôi đã rút ra nhiều điều bổ ích cho việc tìm hiểu thơ ca của mình. Còn 6 buổi sáng ngồi chai đít trong văn phòng Tạp Chí Thơ, HNV thì ngoài những lời chào hỏi xã giao, thú thật, tôi chẳng thu thập được mấy tý.

 

(Anh Đạt này có phải là đảng viên hay Phó Chủ Tịch HNVVN không? Đọc bài này thấy anh là tư bản đỏ thì rất ơn đảng.)

 

Anh Đạt không là đảng viên, và dĩ nhiên, cũng không phải Phó Chủ Tịch HNVVN. Anh chỉ là nhà thơ bình thường, đã đoạt nhiều giải thơ quan trọng trong nước nhưng chưa (hoặc không muốn) gia nhập hội. Anh lấy vợ người Hoa và đã từng bị “đánh” te tua trong mấy chiến dịch bài Hoa nhưng anh vẫn cần cù làm ăn, gây dựng sự nghiệp.

 

Mà dù anh có là đảng viên cao cấp hoặc giữ chức vụ gì đi nữa, khi đã “tâm đầu ý hợp”, đã thành thật và sòng phẳng với nhau trong trò chơi văn chương thì tôi vẫn xem anh là bạn với cái ý nghĩa cao đẹp của nó.

 

(Bài thơ Bờ Vẫn Quá Xa tôi đọc rất cảm kích nhưng Người Lính Lữ Đoàn 1 Dù mà đem tặng bạn Trịnh Anh Đạt và Trần Nhương, tôi thấy uổng quá.)

 

Ơ! Cái anh L này hay nhỉ! Nếu không có cái quan hệ bạn bè với Trịnh Anh Đạt, nếu không có cái câu hỏi “30 năm sau chiến tranh” của Trịnh Anh Đạt thì tôi làm sao có cớ, có hứng để viết bài Bờ Vẫn Quá Xa. Tôi viết bài thơ Bờ Vẫn Quá Xa để trả lời Trịnh Anh Đạt mà không tặng Trịnh Anh Đạt thì tặng ai? (Xin đính chính: Tôi không đề tặng Trần Nhương.)

 

(Giá trước 1975 mà biết cộng sản là gì thì… đỡ khổ, bây giờ vẫn còn nhiều người lơ mơ.)

 

Trước 1975 tôi là Sĩ Quan Tâm Lý Chiến nên biết về cộng sản khá kỹ, khá đầy đủ. Đơn vị tôi đã chiến đấu kiên cường từ Xuân Lộc qua Đức Thạnh, đến Phước Tuy rồi từ Vũng Tàu ra Đông Hải. Tôi không muốn đổ lỗi cho người dân miền Nam mà chỉ muốn nói rằng việc mất miền Nam vào tay cộng sản là do rất nhiều yếu tố khác mà ở vị trí Sĩ Quan Tâm Lý Chiến của Lữ Đoàn tôi không tác động được.

Trước 1975 tôi đã không lơ mơ, và bây giờ tôi vẫn rất tỉnh táo.

 

Anh L kính mến,

 

Dẫu sao những lời bình phẩm của anh về bài viết đã khiến tôi rất vui. Anh đã nhắc tôi đừng quên quá khứ của mình, đừng quên quê hương dân tộc mình. Đó là lời nhắc nhở chân tình.

 

Không! Tôi nhất định sẽ không quên. Chỉ có điều tôi không muốn ôm cái “khối tình Trương Chi” nặng trĩu như anh. Có một thời bạn bè thường gọi tôi là nhà thơ chống cộng bởi mười mấy năm chịu cực hình, đày ải trong nhà tù cộng sản đã khiến thơ của tôi rực lửa căm thù. Ngòi bút cay độc của tôi xỉa xói vào những vùng da thịt nhạy cảm nhất của chế độ, của giới lãnh đạo cộng sản.

 

Nhưng anh L ơi! “Ôi tháng năm! Những dấu chân người cũng bụi mờ.” (Trịnh Công Sơn).Tôi đã thay đổi.Tôi đã bỏ cái tĩnh từ chống cộng nặng nề đàng sau cái danh xưng nhà thơ để chỉ còn là Nhà Thơ bình thường. Nhà thơ biết yêu cái thiện, ghét cái ác, dùng ngòi bút của mình ngợi ca tình yêu và cuộc sống.

 

Tôi không muốn làm hoa hồng, đẹp kiêu sa trong các bình, lọ đủ kiểu nhưng chỉ được khoe sắc ở những nơi mà người chủ của mình, người mua mình từ ngoài chợ về, sắp đặt. Tôi chỉ muốn làm một loài hoa dại mọc bên đường, mở lòng đón gió bốn phương, đem sắc hương dâng hiến cho moi người. Vâng! Cho tất cả mọi người.

 

Một lần nữa, xin cám ơn anh và chúc anh vui mạnh.

 

Phạm Đức Nhì

 

 

 

Thơ của Phạm Đức Nhì gởi Hồ Đăng Thanh Ngọc, Phó TBT báo Sông Hương.

 

 Bạn Ngọc thân mến,

 

Không biết bạn còn nhớ không? Mình gặp nhau ở quán trà bên đường trước khách sạn các bạn tạm trú dể tham dự Ngày Thơ Nguyên Tiêu ở Hà Nội. Tôi hiện đang cư ngụ tại Texas, USA. Mấy bữa nay rảnh lục lại hành trang gặp cái Business Card của bạn. Gởi cho bạn bài viết Có Một Dòng Sông Như Thế xem Tạp Chí Sông Hương có đăng được không?

 Thân chào

  Phạm Đức Nhì

 

 

 Thơ trả lời của Thanh Ngọc, Phó TBT báo Sông Hương (nay đã lên chức Tổng Biên Tập)

 

Chào anh NHÌ

Thanh Ngọc vẫn nhớ cuộc gặp hôm ấy. Bạn thơ ở Huế vẫn luôn mong tinh thần hòa hợp của những người con của quê hương. Riêng Sông Hương đã tổ chức nhiều cuộc gặp gỡ các bạn văn từ nước ngoài về chơi như Đăng Tiến, Trần Thiện Đạo, Nguyễn Đức Tùng, Thái Kim Lan...

 

Bài viết của anh sẽ không đăng được ở Sông Hương anh ạ. Mong anh thông cảm. (Rất lịch sự nhưng bị “kẹt” vì chính sách, lập trường – PĐN)

Mong anh những bài viết khác, một chùm thơ chẳng hạn.

Chúc anh và gia quyến một năm mới sức khỏe, an lạc. Về Huế nhớ ghé Sông Hương chơi.

Thanh NGọc

 

 Góp ý của Thằng Ông Mãnh, thành viên của QUAY-CLUB

 

TÔM  (Thằng Ông Mãnh) không là ba phải nhưng bốn năm phải cũng xin góp vài nhận định về  “Có Một Dòng Sông Như Thế"

 

Anh Nguyễn L sinh ra và lớn lên ở miền Bắc VN gần 50 năm, sự hiểu biết về những nhân vật ngoài Bắc với một chiều sâu đáng kề. Lại thêm gần 30 năm lưu vong ở hải ngoại, kinh nghiệm của cuộc sống đưa đến lập trường rõ rệt. Anh cho rằng đã là con người CS (duy vật) thì không có cái tâm, tất cả những gì họ nói và làm đều là hình thức dối trá để che đậy một mục đích có sẵn.

 

Cũng như anh Phi công L19 Trường Xuân Lê Xuân Nhị cựu HS Trung Học La San BMT vẫn nói “Đối với CS không mày chết thì tao chết”. Điều này cũng được nêu ra từ nhiều cựu lãnh tụ CS quốc tế, cho nên chỉ khi nào thấy họ dám vứt cái thẻ Đảng xuống, tự nhìn nhận sự sai lầm đó, vạch quần … đái tè lên cái thẻ Đảng, cờ Đảng, và hình HCM chúa Đảng, thì lúc đó tiếng nói của nó mới đáng nghe và đáng tin.

 

Nếu Bố tôi mà theo Cộng Sản

Tình cha con đứt đoạn không thương

Một mai đây giữa chốn sa trường

Tôi sẽ nhắm thẳng ngực người mà bắn

(Nguyễn Chí Thiện – Do Nguyễn L truyền khẩu)

 

Sợ người ngoài cho là cực đoan nên các anh ấy không phổ biến, chỉ đọc cho nhau nghe mà thôi. Chiếc áo không làm nên nhà tu, các anh cẩn trọng có quyền không tin những gì xuất phát từ cái Đảng, mặt trận Tổ Cò hay bất cứ tổ chức ngoại vi nào có dính dáng đến nhà cầm quyền đó cũng là lẽ thường.

 

Anh Phạm Đức Nhì (một cảm tình viên lâu năm của QC với nhiều bài thơ quậy hơn TM gấp bội) xuất thân con nhà Quốc Gia xưa nay vẫn có tiếng là Nhà Thơ Chống Cộng. Lòng yêu thơ và yêu nghệ thuật dẫn đưa anh đến gặp những người ngày xưa ở bên kia chiến tuyến, ngày nay sẵn sàng “giao lưu” với lòng tin con người ta tìm đến với nhau qua thơ văn qua nghệ thuật, những chuyện khác gạt qua một bên, không nên đem chuyện riêng cơm áo gia đình, ý thức hệ và quá khứ làm giới hạn nghệ thuật. 

 

Với tinh thần cách mạng này hy vọng anh không bị lừa, không bị lợi dụng bởi những người bạn mới. Càng hy vọng anh kiếm được nguồn cảm thông từ những người bạn cũ ngày xưa cùng bên bờ phía Nam con sông Bến Hài và bây giờ ở bờ Tây của Thái Bình Dương. Cũng hy vọng anh không được/bị liệt vào vào chung danh sách với Phó Bá Long, PD, NCK, cùng nhóm Việt Kiều Yêu Nước. Đa số Việt Kiều khác … mất mẹ nó nước rồi còn đâu nữa để mà yêu, tạm thời cứ yêu Bà SAM mẹ ghẻ có bầu sữa tốt.

 

Truyền thống hình thành đã hơn 7 năm của QC là tranh luận đến nơi, đến chốn, “cho ra lẽ” nhưng chưa có bao giờ “cãi nhau”. Chưa có club nào vui vẻ hoà đồng như hội Quậy này, đôi khi lời lẽ có vẻ “hăng tiết vịt” (style của hội quậy là vậy), nhưng vẫn chỉ là tranh luận trong tinh thần thương yêu hoà kính.

 

Hy vọng những tranh luận của các anh giúp người khác có cái nhìn về thời cuộc khoáng đạt hơn. 

 

Nè năm hết tết đến, các cụ đâu rồi? Mần dùm vài câu đối đón xuân con mèo treo ngoài cổng hội Quậy xem nào?

 

Quậy Viên

 

 

 

Thư của Phạm Đức Nhì gởi NAL

 

Anh L kính mến,

 

Cám ơn anh một lần nữa. Những lời cảnh tỉnh của anh sẽ giúp tôi cẩn thận hơn. Lại còn những lời rào đón của Phạm Đạt nữa. Toàn là những tiếng chân tình.

 

Ngày xưa, trong Cải Cách Ruộng Đất, nếu tôi nhớ không lầm thì Trường Chinh đấu tố đến chết người cha của mình. Bây giờ lại được đọc 4 câu thơ của Nguyễn Chí Thiện, sẵn sàng bắn chết bố mình nếu ông là cộng sản. Chiến tranh ý thức hệ ghê gớm quá anh ơi.

 

Tôi nhớ một nhà báo ngoại quốc khi viết về sự kiện Trường Chinh đấu tố gia đình mình, lúc ấy đã kết luận:

 

    " Nếu bảo việc Trường Chinh đấu tố đến chết người cha thân yêu của mình là biểu hiện của tinh thần đấu tranh giai cấp quyết liệt, thì người ta sẽ phải hiểu thế nào về Đạo Đức Xã Hội Chủ Nghĩa? "

 

Tôi nể phục tinh thần chống cộng của Nguyễn Chí Thiện, nhưng chống đến mức sẵn sàng bắn chết bố mình thì (nói như nhà báo ngoại quốc kia) người ta sẽ phải hiểu thế nào về Đạo Đức Của Những Người Chống Cộng?

 

Chúc anh vui khỏe.

 

Phạm Đức Nhì

 

 

 

 

 

 

 


Thư của NAL gởi Phạm Đức Nhì

 

Thưa anh Phạm Đức Nhì,

 

Trước 1975 tôi đã không lơ mơ, và bây giờ tôi vẫn rất tỉnh táo.

 

Câu ghi trên trong thư của anh gửi cho tôi đã nói đủ cả. Xin anh nhận cho lòng kính trọng của tôi. Sở dĩ tôi cảm thấy áy náy vì tôi đã sống ở miền Bắc, không di cư năm 1954 nên cho là mình hiểu cộng sản hơn bạn bè sống ở miền Nam. Tôi đã trải qua nhiều giai đoạn khốc liệt, từ đánh tư sản, cải cách ruộng đất, cải tạo tề ngụy, Nhân Văn Giai Phẩm, thanh trừng nội bộ, thủ tiêu vv...

 

Điều anh ghi dưới đây, đối với tôi hơi lạ, vì đã 28 năm tôi không về VN, kể thì bây giờ đổi mới cũng khác xưaTôi thành thực xin lỗi nếu anh coi những thắc mắc ghi sau phần câu viết của anh trong bài trước là chỉ  trích.

 

Tôi đến trụ sở Hội Nhà Văn Việt Nam 6 lần và thường ngồi uống trà, tán gẫu ở văn phòng Tạp Chí Thơ. Tôi đã gặp, trò chuyện với hơn 20 nhà văn, nhà thơ miền Bắc đến lãnh nhuận bút hoặc đưa bài.

 

Tôi đã gặp nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ Tịch HNVVN, và trò chuyện khoảng 20 phút. Tôi cũng gặp Phó Chủ Tịch là Nguyễn Trí Huân và Nguyễn Hoa, Ủy Viên Ban Chấp Hành HNV, nhưng chỉ bắt tay chào hỏi chứ không có thì giờ nói chuyện. Riêng anh Ngô Thế Oanh, Phó Tổng Biên Tập Tạp Chí Thơ thì tôi có dịp trao đổi với anh về khuynh hướng sáng tác của thơ ca Việt Nam và cùng bình phẩm bài thơ Ngậm Ngùi của Huy Cận.

 

Tất cả các cuộc trò chuyện đều lịch sự, vui vẻ nhưng không vượt qua được cái hàng rào xã giao cứng ngắc. Họ giữ ý, tứ trong từng câu nói và lảng tránh khi đụng chạm đến những vấn đề nhạy cảm. Những điều tôi tìm hiểu vẫn chưa có câu trả lời, hoặc nếu có câu trả lời thì câu trả lời đó cũng chưa làm tôi thỏa mãn.

 

...Anh chỉ là nhà thơ bình thường, đã đoạt nhiều giải thơ quan trọng trong nước nhưng chưa (hoặc không muốn) gia nhập hội

.... Mà dù anh có là đảng viên cao cấp hoặc giữ chức vụ gì đi nữa, khi đã “tâm đầu ý hợp”, đã thành thật và sòng phẳng với nhau trong trò chơi văn chương thì tôi vẫn xem anh là bạn với cái ý nghĩa cao đẹp của nó.

 

..  Nặng lòng với quê hương dân tộc như anh (T.A.Đạt) thì khổ quá. Có lúc phải quên đi cho nhẹ gánh để hưởng lạc thú cuộc đời chứ.

 

Anh nói với bạn của anh (Tôi nói với anh NAL, có lẽ anh hiểu lầm) nhưng tôi cũng lắng nghe và cám ơn anh. Thực ra thì cũng nên như vậy. Tôi tham gia Quậy Club, quậy lung tung chỉ thua có ông Tran Mo thôi .

Cám ơn anh Phạm Đức Nhì đã thư cho tôi và những cảm nghĩ thẳng thắn của anh.

NAL

 



Thư của Trịnh Anh Đạt gởi Phạm Đức Nhì

Phạm tiên sinh quý mến!

 

Thật thú vị khi đọc thư của anh trả lời NAL. Đúng là một sỹ quan tâm lý chiến. Bản lĩnh vững vàng. Bài viết đầy thuyết phục- Có lẽ vì vậy mà phần hồi âm NAL tỏ ra “tâm phục, khẩu phục”…

 

                                            Vượt lên giông bão trăm miền

                                     Quê hương ơi! Phút bình yên diệu kỳ!...

 

Câu thơ khép lại đầy sảng khoái, tự hào. Cảm nhận này TAĐ viết cho PĐN mà như viết cho chính mình, bởi hai người lính chiến đã từng “choảng” nhau chí mạng khi ở hai chiến tuyến. Dù họ cầm súng ở phía nào, sự ám ảnh của chiến tranh vẫn theo họ suốt đời…(Chính nghĩa hay phi nghĩa chỉ là môt phạm trù do nhận thức của mỗi người!) Đây cũng là lý do tại sao TAĐ có khá nhiều thi phẩm viết về ký ức chiến tranh. Chẳng hạn người ta lên Đà Lạt để thưởng ngoạn phong cảnh hoa thơm, cỏ lạ…CònTAĐ thì:…              

 

“Chìm vào đêm tối mênh mông

 Gặp thời chiến trận, nỗi lòng nôn nao…”

 

Để rồi:  

               

Ba mươi năm, bấy nhiêu ngày

Mà sao ký ức căng đầy chẳng vơi?

Đồng đội ơi. Đồng nghiệp ơi

Chạm rừng đêm, có nhớ thời lửa bom?

 

Câu thơ “Quê hương ơi…” không đề cập đến việc dân mình có được sung sướng, hạnh phúc, yên vui hay không mà nó gửi gắm thực trạng và tâm trạng của hai người lính đã trải qua… “Vượt lên giông bão trăm miền…”đâu chỉ miêu tả ông nhà thơ Mỹ gốc Việt “ngự’’ phi cơ hiện đại cưỡi mây, cưỡi gió vượt qua các vùng miền quốc gia khác nhau, mà còn hàm chứa ý sâu xa: Gần 20 năm về trước Phạm thi nhân cũng lênh đênh trên biển cả, phiêu dạt men bờ biển của các quốc gia vùng đông nam châu Á mới đến được “Miền đất hứa”.

 

Chính mắt PĐN nhìn thấy những mảnh ván thuyền trôi lênh bềnh và cả những mảnh áo quần của các nạn nhân trôi lập lờ trên biển…Cũng như thân phận của tác giả “….Áo cơm bạc mặt kiếm tìm…”Trên 10 năm : “Ngồi chơi xơi nước” chỉ vì liên quan đến người Hoa!...Vì vậy có thể khẳng định TAĐ không phải là “Tư bản đỏ”

 

“Phút bình yên Văn Miếu” là một thi phẩm phản đối chiến tranh, bênh vực nạn nhân chiến tranh của cả hai phía. Hậu quả của cuộc chiến ấy là đây:

                       

                             Người mẻ trán, kẻ sứt đầu

                      Trở giời trái gió ngấm đau một mình !...

 

Vết thương chiến tranh sẽ còn tàn phá thân thể và tâm tư tình cảm của những người lính tham gia cuộc chiến ấy, chẳng bao giờ có thể nguôi ngoai. Nhưng chiến tranh đã khép lại trên 30 năm rồi. Chức năng của các nhà thơ trong nước cũng như hải ngoại là biến văn chương thành phương thuốc nhiệm màu dịt lành vết thương đau.. Biết yêu cái thiện, ghét cái ác, dùng ngòi bút của mình ngợi ca tình yêu và cuộc sống…Đem sắc hương dâng hiến cho tất cả mọi người ! Vâng cho tất cả mọi người! (Chữ của Phạm Đức Nhì)

 

Khi tới thăm bảo tàng không quân ở Sacramento City, mình cùng các cháu nhỏ tự do leo trèo lên các phi cơ hiên đại nhất của các thời đại; từ thế chiến thứ II đến các phi cơ tham chiến ở Việt Nam, IRac… Tự dưng mình liên hệ đến kho mũi tên đồng được khai quật ở Cổ Loa thành đã hoen rỉ thời An Dương Vương, mà lòng không khỏi ngậm ngùi                           

 

Chao ơi! Tất cả các loại vũ khí tối tân của mọi thời đại cuối cùng cũng thành đồ chơi cho con trẻ mà thôi!

 

Hãy làm cho nhân loại và con cháu muôn đời phản đối chiến tranh, như những người lính chúng ta chán ghét chiến tranh!

 

Chào thân ái

TRỊNH ANH ĐẠT 

   

TB: Mình rất vui khi được đọc các bài viết của bạn Nhì!

 

 

                                                                              

Thơ của KP gởi Phạm Đức Nhì

 

Bạn Phạm Đức Nhì thân mến,

 

“Bờ Vẫn Quá Xa” - bài thơ mang tính nhân bản và tình tự dân tộc có tác động thức tỉnh lòng trắc ẩn của những người phía bên kia. Nội dung mặc dầu cũng tố cáo những hành vi tàn bạo phi nhân của cai tù và hệ quả của chính sách hà khắc của nhà cầm quyền cộng sản đối với toàn dân, nhưng nó không biểu hiện sự căm hờn, thù nghịch mù quáng mà chỉ vạch trần mỗi góc cạnh của xã hội để thức tỉnh lương tri dân tộc.

 

 Mấy câu thơ tôi đắc ý nhất là:

 

Báng súng AK

các anh lao vào ngực, vào bụng

cho đến khi con nhái phòi ra

con nhái lúc vào màu xanh

lúc ra thành màu đỏ.

 

Chữ “phòi” và chữ “xanh”, “đỏ” bạn dùng thật đắt, thật tuyệt vời! Nó diễn tả được sự ghê tởm đến dã man vô cùng tận của con người đối với con người, của con dân với người đồng chủng.

 

Hãy tưởng tượng ba tên cai tù vây quanh một nạn nhân thân tàn ma dại, báng AK liên tục dộng vào ngực, vào bụng một người chỉ vì bỏ đói mà ăn bậy một con nhái sống. Mắt trợn ngược, miệng ứa máu, “phòi” ra một con nhái sõng soài trong bụm máu.  Thật ghê rợn, thật dã man.

 

Tôi nghĩ các bạn thơ của bạn từ quê nhà, đã từng là những chiến binh đối đầu trong mặt trận cũng phải ghê rợn, bẽn lẽn ngậm ngùi vì những hành vi phi nhân của những người đồng chí cùng chiến tuyến.

 

Đọc đoạn thơ này tôi bỗng nhớ đến hình ảnh tương tự của sự tàn bạo tôi được chứng kiến ở trại tù Nghệ Tĩnh.  Hôm ấy tôi được cử đi thâu hoạch rau xanh cho ban (ban cán bộ cai tù). Tôi đang chặt cải bắp và xu hào bỏ vào gánh thì từ xa một anh tù hình sự trờ tới.  Miệng liến thoắng, tay vơ vội chiếc cải bắp trên luống rồi ngoắt quay đi.

 

Bỗng đâu gần đó tên cán bộ quản giáo Hạnh xuất hiện, chặn đầu. Anh hình sự đứng chết trân như chuột trước miệng mèo. Tên cán bộ Hạnh quơ con dao phay to bản, cán sắt nặng, thẳng cánh phóng về phiá trước.  Phịch! Tôi ghê sợ nhắm mắt lại, khi mở ra thấy anh hình sự gục xuống, miệng ứa máu lắp bắp: “lạy ông…” và con dao cán quay ngược nằm ngay trước mặt…

 

Anh hình sự rất may chưa chết, nhưng ắt hẳn lá phổi anh đã ói máu bầm giập.  Anh ráng lết về hướng cũ, nơi đó có một tên lính dẫn giải từ từ tiến lại.  Tên dẫn giải nói với tên cán bộ Hạnh: “Mẹ kiếp, sao mày đánh nó đau thế! Tao bảo nó đến xin ít rau về cải thiện…” Thế là huề! Sinh mạng con người được giới có quyền trân trọng như thế ấy! 

 

Qua câu chuyện kể ta thấy “con nhái màu đỏ” của bạn không phải là hình ảnh cá biệt mà nó rất phổ biến trong các trại tù.  Dường như những người cán bộ công an họ đã được đào luyện, nhồi nhét trong đầu về cách nhìn nhận và đối sử với đồng bào ruột thịt mình như vậy.  Họ có coi đồng bào họ là những con người? Ôi mẹ Việt nam ơi! Chẳng lẽ đất nước này tồn tại và phát triển được đến ngày nay là dựa vào phong cách cư xử với nhau như vậy hay sao? Thật tôi không hiểu nổi!!!

 

Về hình thức, âm vận khá chặt chẽ, bạn đã dùng lối thơ tự do nhưng vẫn tôn trọng âm luật tự nhiên, thể hiện được lối biểu hiện thanh thoát nhưng vẫn toát ra được lối kể chuyện chững chạc tự tin. 

Ngoài ra, tôi thấy có vài chữ chưa được chỉnh lắm như câu:

 

kẻ mất tay, người sẹo đầu, sẹo cổ

Tôi đề nghị dùng chữ “ngẹo đầu” thay cho “sẹo đầu”.  Nó giữ được nguyên âm vận trong khi vẫn tránh được sự trùng hợp không cần thiết, mà lại diễn tả được sự tàn hại đa dạng của chiến tranh.

 

Còn câu:

 

Cô vợ trẻ người Hoa

Đã có thể cho đi đứa con khác màu da

 

Nhóm chữ “đã có thể” hơi gượng, lại không diễn tả được tâm lý đau khổ trong mâu thuẫn của người mẹ khi phải dứt bỏ đứa con khác màu da do tại nạn hải tặc trong bụng mình.  Tôi đề nghị nhóm chữ:  “phải nén lòng” cho đi…Nó có thể nói được sự day dứt trong mặc cảm của người phụ nữ.

(Đã sửa theo đề nghị của KP)

 

Có thể nói bài thơ “Bờ Vẫn Quá Xa” của bạn là một sự trổi dậy tìm về nguồn cội dân tộc. Tất cả những cuộc thăm viếng, trao đổi thơ văn của bạn là một nỗ lực chiến thắng bản thân như một nạn nhân và chứng nhân của những hậu quả sau cuộc chiến quốc cộng. 

 

Việc làm của bạn không có tính quyết định sự hàn gắn vết thương dân tộc mà chỉ mang ý nghĩa mở lòng giao lưu; gợi cảm soi rọi những vết thương tiềm ẩn, để những người có trách nhiệm, có thẩm quyền phải dám nhìn vào sự thực vì tiếng kêu gào của mẹ Việt nam: “Bờ phải được nối liền…”

 

Tôi rất tiếc không có thì giờ đi sâu hơn về những công trình tim não, đánh dấu một quãng đời mà bạn trân trọng. Tôi chỉ muốn góp với bạn tiếng nói đồng cảm về món nợ tổ tông mà dù muốn hay không, đã tham dự vào ở bên này hay bên kia chiến tuyến chúng ta cũng đều có trách nhiệm.

 

Cuộc đời mình không còn dài nữa. Tôi thấy chúng ta cần phải đóng góp chút gì để được thanh thản trước khi bước vào cõi vĩnh hằng.  Việc làm của bạn mang ý thức phản tỉnh đó.

 

Tôi muốn hỏi bạn tôi có thể phổ biến những bài viết này trong phạm vi thân hữu?

Chúc bạn tiến xa mãi trong bước đường nghệ thuật.

 

Cali ngày 20 tháng 2 năm 2011

KP

 

Bài thơ của Yên Sơn gởi tặng Phạm Đức Nhì

 

Gửi anh Phạm Đức Nhì (*)

 

 

Nằm trên net

Bạn gửi qua gửi lại

Gặp bài thơ anh

Tên tác giả tôi mới đọc lần đầu

Thường tôi hay đọc lướt chỉ vài câu

Nếu hợp ý mới đọc luôn một lúc

 

Đọc thơ anh vài khúc

Câu cú thấy hợp với tôi

Ý nghĩa không sâu xa mà rất là đời

Rất chân thực với rất nhiều cay đắng

 

“Tự do như muối

Hạnh phúc như đường”

Tôi đọc thơ anh

(Thơ người lính nhảy dù Lữ Đoàn I)

Trong lòng xa xót

Đau cái đau của người ngã ngựa năm nào

 

Dẫu cả hai chúng ta cùng chung cuộc binh đao

Dẫu mỗi chúng ta

Có niềm tự hào riêng về binh chủng

Nhưng tôi vẫn trọng anh

Một quân nhân với tấm gương anh dũng

Hiếu nghĩa với gia đình

Tiết liệt với non song

 

Tôi dặn lòng

Nếu mai kia có cơ duyên

Mình gặp nhau trên bước đường lưu lạc

Dù tóc còn xanh

Hay mái đầu đã bạc

Tôi cũng sẽ mời anh một ly rượu ân tình

 

Tôi sẽ cám ơn anh

(Như cám ơn những người kẹt lại)

Đã mục kích những oái oăm của thời đại

Đã chịu nhục hình dưới sự tàn bạo của một lũ ngu

Đã can đảm, hiên ngang hứng chịu đòn thù

Đã đứng thẳng qua bao nhục nhằn, cay đắng

Mặc lũ ngô nghê ăn mừng chiến thắng

Chiến thắng rớt xuống từ trời

Hay Kissinger và tòa Bạch Ốc ban cho

 

Anh Phạm Đức Nhì ơi!

Chúng mình đã thua trận

Không phải vì thiếu dũng lược

Cũng chẳng thiếu xả thân

Cũng không phải thiếu sự ủng hộ của toàn dân

Nhưng vì thiếu lớp người chỉ huy tài cán

Chức trọng, quyền cao có từ mua bán

Tham nhũng, lộng quyền

Dựa dẫm ngoại bang

 

Kịp đến khi người Mỹ chạy làng

Lãnh đạo ta mới biết

Bạn của mình đã đi đêm cùng giặc

Thế là lãnh tụ chúng ta con bồng vợ dắt

Lén chuồn êm

Bỏ thuộc cấp của mình

 

Nói cho ngay

Còn có ngũ hổ tướng anh hùng (*)

Đã tự vẫn để giữ tròn danh tiết

Họ là niềm hãnh diện của con dân miền Nam nước Việt

Tướng chết theo thành

Vạn thuở lưu danh

 

Còn có ông Đại Tá hùng anh (*)

Bị giặc bắn giữa vận động trường một ngày tháng Tám

Và còn biết bao nhiêu quân dân cán chính

Thà chết chứ không chịu đầu hàng

Lũ giặc cuồng ngông

 

Viết vài lời chia sẻ, cảm thông

Mong anh cứ là Phạm Đức Nhì của dòng thơ mới

Thế nào cũng có một ngày

Duyên đầy nợ tới

Hai đứa tụi mình nhất định nâng ly.

 

Yên Sơn

 

(*) Tác giả của các bài thơ “Bờ Vẫn Quá Xa” và “Lá Cờ Chính Nghĩa…” được lưu truyền trên diễn đàn Việt ngữ trong cả tháng qua.

(*) Ngũ Hổ Tướng: Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Phạm Văn Phú

(*) Đại tá Hồ Ngọc Cẩn bị bắn ở vận động trường Cần Thơ, ngày 14/8/1975.




Thêm Vài Chi Tiết Đáng Nhớ:

 

1/ Bài “Có Một Dòng Sông Như Thế” gởi Hồ Đăng Thanh Ngọc (lúc đó là Phó Tổng Biên Tập báo Sông Hương - giờ đã lên Tổng Biên Tập) thì bị từ chối bằng những lời lịch sự.

 

2/ Cũng bài đó gởi cho Trần Nhương (chủ trang web của HNVVN) thì bị nhẹ nhàng bỏ mất bài thơ Bờ Vẫn Quá Xa.

 

3/ Chuyện trò thân tình với một số nhà văn nhà thơ - đặc biệt là những người là hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam – tôi nhận ra một điều: Họ Sợ. Và tôi nỏi hứng viết bài thơ Bệnh Nan Y.

 

BỆNH  NAN Y

 

Bác sĩ khám tổng quát

cho nhân viên một công ty

thấy đa số mắc một chứng bệnh lạ kỳ

bệnh Teo Hòn Dái

 

Người bệnh ăn ngủ ỉa đái

vẫn bình thường

không nhiễm trùng, không sốt, không nhức xương

không đau bắp thịt

đi đứng nằm ngồi

cũng giống như bao người khác

 

Chỉ thỉnh thoảng trong lúc làm ra và giới thiệu sản phẩm 

mặt lại tái xanh

tim đập nhanh

mắt nhìn quanh lấm lét

lúc ấy hòn dái teo đét

chỉ bằng hạt tiêu

trên người

mồ hôi

vã ra như tắm

 

Công ty ấy không sản xuất hàng công nghệ

không kinh doanh hàng ăn

mà chỉ làm ra tượng, tranh

và nhiều mặt hàng liên quan đến chữ viết

đó chính là Hội Nhà Văn

nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam

 

Trên đường giao lưu thơ văn

gặp những cây bút từ Hội Nhà Văn Việt Nam

các bạn tôi

bắt tay bác này khen chữ dùng sang cả

vỗ vai anh kia khen ý hay tứ lạ

có sáng kiến làm mới thể thơ

riêng tôi gặp họ

chỉ thích nắn sờ

hai hòn dái.

 

Phạm Đức Nhì

 

 

Comments

Popular posts from this blog

CHỌN THƠ ĐỂ BÌNH

CÓ MỘT DÒNG SÔNG NHƯ THẾ

Tô Ðông Pha Sửa Thơ Vương An Thạch