CÁI TỘI KHÔNG CÀI LẠI KHUY ÁO NGỰC
CÁI TỘI
KHÔNG CÀI LẠI KHUY ÁO NGỰC
TAN VỠ
Mở ngăn kéo rồi anh bỏ ngỏ
Bút viết xong không đậy nắp bao giờ
Ôi anh yêu, lơ đãng đến là
Con nai rừng của em...
Tất cả rồi dễ qua đi, qua đi
Chúng mình sẽ thành vợ thành chồng
Nếu không có một lần...
Một lần như đêm nay
Sau phút giây
Êm đềm trên ghế đá
Anh không cài lại khuy áo ngực cho em
(Dư Thị Hoàn, tập thơ Lối Nhỏ)
(Bình thơ kiểu lan man, không bài bản)
Tan Vỡ là bài thơ viết theo lối Kiếm Tông: Ra
chiêu độc, nhắm vào chỗ hiểm nhưng ít nội lực. Lối viết này nhẹ về cảm xúc,
nặng về kỹ thuật - chú trọng cái đẹp văn chương của câu chữ và thế trận. Thi sĩ
tỉnh táo nên cảm xúc tầng 3 - ở ngoài câu chữ, phát sinh do trạng thái cao
hứng, nổi điên của tác giả (mà đỉnh điểm của nó là hồn thơ) - thường không có
hoặc có rất ít. Bài thơ thường ngắn và đoạn kết thường sử dụng thủ pháp “gợi,
không kể” (Show, Don’t Tell) tạo cảm giác thích thú cho độc giả khi “bắt” được
tứ thơ.
Bài thơ có hình thức thật dễ thương. Ba câu đầu
còn có vóc dáng của Thơ Mới (biến thể). Đến câu thứ tư đã thấy khác lạ. Đọc hết
bài thì thấy tay chân tác giả sạch trơn, không còn bóng dáng của xiềng xích,
dây nhợ, luật tắc.
Chị còn giữ lại chút vần, nhưng là thứ vần thoang
thoảng, phóng khoáng, không trói buộc. Chỗ có, chỗ không, len theo dòng chảy
của tứ thơ. Bài thơ có 11 câu, 69 chữ nhưng chỉ có 3 cặp vần (giờ là, chồng
lần, nay giây), toàn là thông vận, trong đó có 2 thông vận rất xa nên độ ngọt
vừa phải, đủ cho ý này nối tiếp ý kia một cách tự nhiên, tuyệt đối không có hội
chứng nhàm chán vần.
Tôi đọc to cả bài thơ vài lần để nghĩa của từng
chữ, từng câu, từng đoạn thấm vào hồn, để nghe tiếng nhạc êm đềm thánh thót
chơi vơi, và để nhận ra kỹ thuật thơ nhuần nhuyễn của tác giả.
Hai câu đầu:
Mở ngăn kéo rồi anh bỏ ngỏ
Bút viết xong không đậy nắp bao giờ
đặt nền cho câu kết:
Anh không cài lại khuy áo ngực cho em
rất khéo. Mở ngăn kéo không đóng, bút viết xong
không đậy nắp, đều dễ cho qua. Nhưng “không cài lại khuy áo ngực cho em” thì
theo chị, không thể chấp nhận được. Gợi ý đơn giản mà rất hợp.
Hai câu 3 và 4
Ôi anh yêu, lơ đãng đến là
Con nai rừng của em...
rất tình và dễ thương. Đây cũng là chỗ bước ra
khỏi lề luật của Thơ Mới biến thể.
Bài thơ thành công ở chỗ tác giả đã chuyển tải
được tâm tình của mình đến độc giả một cách điệu nghệ; chị đã thành thật bày tỏ
điều mình muốn nói, và độc giả đã hiểu được, cảm được cái thông điệp ấy không
khó khăn lắm.
Có một điều hơi trái khoáy nơi cảm xúc của tác
giả. Tâm trạng của chị lúc làm thơ có thể nói là “nóng như lửa”. Lý do: Sau khi
cho người yêu thám hiểm và mân mê “đôi gò bồng đảo” hắn lại đành
lòng không cài lại khuy áo ngực cho mình. Nó được biểu lộ ở chỗ ngay đêm hôm
đó, sau khi chia tay từ “ghế đá”, chị đã tự ý quyết định cắt đứt mối tình.
Sự đè nén cảm xúc của nhà thơ Dư Thị Hoàn thật
đáng nể phục. Chị đã biểu lộ sự thâm trầm của một phụ nữ có bản
lãnh. “Giận đến điên tiết” nhưng lời thơ vẫn nhẹ nhàng, giọng điệu
vẫn dịu dàng.
Chúng mình sẽ thành vợ thành chồng
Nếu không có một lần...
Một lần như đêm nay
Sau phút giây
Êm đềm trên ghế đá
Anh không cài lại khuy áo ngực cho em
Nhẹ nhàng, dịu dàng nhưng dứt khoát. Hai chữ “đêm
nay” chứng tỏ chị đã quyết định dứt khoát ngay sau đó. Và cái tựa Tan Vỡ là
kết quả đương nhiên.
Đáng tiếc là sự đè nén đó đã làm bài thơ thiếu
hơi nóng, chỉ khơi gợi được cảm xúc tầng 1 (từ câu chữ), cảm xúc tầng 2 (từ thế
trận). Cảm xúc tầng 3 hầu như không có.
Bình luận về bài thơ luôn gây tranh cãi này,
Tiến sĩ Trần Ngọc Hiếu dẫn chứng luận điểm của một tôn giáo: “Thân thể của
tôi là luật của tôi”. Ông cho rằng “… Người phụ nữ có thể chấp nhận
người đàn ông vô tâm, nhưng đến mức không cài lại khuy áo (đã vượt
giới hạn cho phép - chữ của PĐN), là dấu hiệu cho thấy người phụ nữ này ý
thức về thân thể mình, sự tổn thương của mình, cô ấy đòi hỏi sự tôn trọng, cần
được nhìn như một cái gì bình đẳng”. (1)
Tôi không đồng ý với nhận xét của Tiến Sĩ Trần
Ngọc Hiếu.
Nguyễn Thị Hoàng Bắc – qua bài Ngọn Cỏ - muốn
đái đứng để đòi lại quyền bình đẳng với nam giới, nhưng lời kêu gọi của tác giả
Ngọn Cỏ không được nhiều người hưởng ứng (2). Lý do: Hình ảnh người phụ nữ đứng
đái – do đặc tính của bộ phận sinh dục (kiêm bài tiết) – không những không được
đẹp mà còn rất phản cảm nữa.
Trong khi đó, Tan Vỡ của Dư Thị Hoàn chỉ là sự
ương ngạnh đầy cá tính của một phụ nữ thích được hoàn toàn độc lập trong cách
suy nghĩ và ứng xử của mình, chẳng liên quan đến bình đẳng hay nữ quyền gì hết.
Trong bài Sài Gòn Một Chiều Em Lỡ Hẹn tôi có
viết về cô bạn gái thời vẫn còn rất trẻ:
“Còn nhớ không? Có lần anh lấn tới
Cũng một buổi chiều, em vẽ một làn ranh
Đây là biên giới.
Đừng bao giờ vượt quá nghe anh (3)
Dù tình từ cảm mến đã đến chỗ yêu thương nhưng
nàng vẫn muốn giữ gìn, không muốn người yêu coi thường mình. Tôi hoàn toàn chấp
nhận thái độ tự trọng ấy. Tuy nhiên, chỉ sau một thời gian ngắn, làn ranh ấy đã
được vẽ lui lại mấy lần khi tình thêm sâu đậm. Và sau cùng, trong cơn cao hứng,
tôi xóa sạch làn ranh; nàng phụng phịu một tí rồi cũng vẫn mỉm cười vui
vẻ.
Trường hợp của Tan Vỡ thì khác. Tình của hai
người đã chin mùi, sắp sửa thành vợ, thành chồng. Nàng đã mở cổng hai lớp rào
đón chàng vào thăm khu đồi hai quả của mình. Chàng và nàng đã đê mê “sau phút
giây êm đềm trên ghế đá”. Thế rồi chỉ vì “Anh không cài lại khuy áo ngực cho
em” mà nàng, không một lời cảnh báo, cắt đứt mối tình, “mời chàng đi chỗ khác
chơi”.
Ở đây không phải vì lòng tự trọng mà vì trong
cơn bốc đồng, tự ái dâng lên cao độ, chị đã đưa ra một quyết định không hợp lý
mà cũng chẳng hợp tình – ngôn ngữ đời thường là “chảnh không phải lối”.
Hơn nữa, mình cài khuy áo ngực cho mình thì
không khó lắm. Nhưng người khác cài cho mình thì không phải dễ - nhất là hai
người ngồi bên nhau trên ghế đá. Nếu không đứng lên cũng phải xoay lưng lại.
Rồi còn trời tối, không thấy rõ ràng nên cũng phải mò mẫm một lúc may ra mới
cài được. Mà đây là ghế đá chứ có phải nhà riêng, phòng riêng đâu. Mò mẫm kiểu
đó lỡ có ai thấy người ta cười chết.
Mới dạo thăm “hai quả đồi” mà luật lệ đã
khắt khe như thế, còn khi đã thành vợ thành chồng thì sao? Đâu phải chỉ có khuy
áo ngực mà cả áo quần lớp này lớp khác. Cứ cái tinh thần ấy, luật lệ ấy thì ân
ái không còn là lạc thú mà sẽ trở thành những bực mình, khó chịu; không khéo
thì chẳng bao lâu cả anh chồng lẫn chị vợ đều mắc phải chứng bệnh lãnh cảm.
Bởi vậy tôi hoàn toàn đồng ý với nhà
nghiên cứu Hoàng Tố Mai khi bà cho rằng “Bài Tan vỡ tôi lại không
để ý lắm. Tôi không quan tâm chuyện cài lại áo, vì đối với tôi quần áo
ai người ấy mặc”. (1)
Tóm lại, Tan Vỡ là một bài thơ
hay, đặc biệt là hình thức (thi pháp) của bài thơ. Nó đã thoát khỏi trói buộc
của các thể thơ truyền thống, vượt qua Thơ Mới, kể cả Thơ Mới biến thể.
Số chữ trong câu tùy tiện, Số
câu trong bài tự do, viết hết ý thì thôi.
Như đã nói ở trên, tác giả còn giữ lại chút vần, nhưng là thứ vần
thoang thoảng, phóng khoáng, không trói buộc.
Tứ thơ thông thoáng, dàn trải
tâm tình của tác giả một cách dễ dàng và hiệu quả.
Tiếc là thông điệp của tứ thơ
quá “chảnh” nên khó tìm được người đồng thuận chứ đừng nói là đồng cảm.
Theo tôi, nhà thơ Dư Thị Hoàn
nắm vững và đã đi trước nhiều nhà thơ đương đại về thi pháp. Nếu chị chuyển qua
viết theo lối Khí Tông thì với kỹ thuật thơ mới mẻ và nhuần nhuyễn như thế, lại
gặp được trạng thái tâm rung chuyển mạnh mẽ như khi đặt bút viết Tan Vỡ, tôi
tin rằng thơ của chị sẽ có hồn, sẽ lưu lại ấn tượng khó quên trong lòng người
đọc. Và dĩ nhiên, vị trí của chị trong làng thơ sẽ còn cao hơn nữa.
Phạm Đức Nhì
CHÚ THÍCH:
3/ http://thophamducnhi.blogspot.com/2019/10/sai-gon-mot-chieu-em-loi-hen.html
Comments
Post a Comment