CÓ MỘT DÒNG SÔNG NHƯ THẾ
CÓ MỘT DÒNG SÔNG NHƯ THẾ
Trong một chuyến về thăm quê hương,
nhờ trang Web Trần Nhương tôi đã quen biết nhà thơ, họa sĩ Trần
Nhương (chủ trang Web). Nhà thơ kiêm họa sĩ này rất cởi mở, vui
vẻ, và nhiệt tình giúp tôi có dịp gặp gỡ, trò chuyện với các nhà văn, nhà
thơ Việt Nam trong đó có nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ Tịch Hội
Nhà Văn Việt Nam.
Biết quê vợ tôi ở Đồ Sơn, anh
Trần Nhương đã mách nước cho tôi đến tìm gặp một nhà thơ nổi tiếng
của Hải Phòng, làm chủ khách sạn Hoa Thành Đạt đồ sộ ở Đồ Sơn,
nhà thơ Trịnh Anh Đạt. Trịnh Anh Đạt và tôi đã mau chóng vượt
qua được cái hàng rào xã giao khô cứng. Chúng tôi có nhiều buổi ngồi uống
chè Núi Đối nói chuyện thơ, đọc và nghe thơ của nhau. Hai anh
em đã thân nhau và trao đổi với nhau khá nhiều điều sâu kín.
Qua Trịnh Anh Đạt tôi nhận được giấy
mời tham dự ngày thơ Nguyên Tiêu và gặp, trò chuyện với một số nhà
thơ trong Hội Nhà Văn Việt Nam. Rời các sân thơ Văn Miếu tôi may mắn được
tháp tùng một nhóm các nhà thơ miền Bắc đi ăn khuya. Bên chén chè, ly
rượu các anh đã cho phép tôi bước vào khung trời thơ rất riêng tư, rất
chân thật của mỗi người.
Sau đó, nhân cuộc triển lãm mỹ thuật
của một số họa sĩ Hải Phòng tôi lại được gặp các anh một lần nữa.
Những cuộc trò chuyện bên lề này đã giúp tôi vỡ lẽ ra nhiều điều
thú vị; sự hiểu biết về thơ ca của tôi cũng được mở rộng
thêm. Tôi đã được các tác giả tặng nhiều tập văn, thơ có
giá trị tham khảo. Anh Đạt cũng cho tôi một phần khá nhiều trong số thơ anh
sưu tập. Và đặc biệt, anh đã cao hứng viết tặng tôi một bài
thơ kỷ niệm Ngày Thơ Nguyên Tiêu tại Văn Miếu.
PHÚT
BÌNH YÊN VĂN MIẾU
(Tặng Phạm Đức Nhì, nhà thơ Mỹ gốc Việt)
Anh từ Texas về đây
Bạn thơ dang rộng vòng
tay đón chào
Bỏ qua thủ tục ngoại giao
Toàn thằng lính trận thuở nào choảng
nhau!
Người mẻ trán, kẻ sứt đầu
Trở giời trái gió ngấm đau một
mình
Duyên thơ nối nhịp ân tình
Rời tay súng, chẳng phải rình rập ai
Vào nơi trọng dụng hiền tài
Qua Khuê Văn Các sánh vai cùng người
Thơ hay vụt thả đỏ trời
Rưng rưng ánh mắt rạng ngời lửa
thiêng!
Vượt lên giông bão trăm miền
Quê hương ơi! Phút bình yên diệu
kỳ!
Văn Miếu
Quốc Tử Giám
Nguyên Tiêu Canh Dần
Trịnh Anh Đạt
Sau khi tôi trở về Mỹ, anh Đạt
và tôi cũng thỉnh thoảng điện thoại thông báo cho nhau những nét mới trong
sinh hoạt văn học ở trong nước và hải ngoại. Tháng 10 năm 2010
gia đình anh Đạt qua Mỹ dự lễ cưới của con gái ở
California. Sau khi chu du vài thành phố có đông người Việt tỵ nạn
anh Đạt gọi điện thoại hỏi tôi:
"Chiến
tranh đã chấm dứt hơn 30 năm mà sao người Việt hải ngoại vẫn còn ác cảm, vẫn đối đầu
với những người Cộng Sản?”
Tình cảm của anh Đạt dành cho tôi
sâu đậm như thế nên tôi thấy mình có bổn phận phải cho anh câu
trả lời thành thật.
Sau 30/4 /1975 chính sách cải tạo đã làm
cho người dân miền Nam ngỡ ngàng choáng váng. Sau kỳ hạn 2 tháng, rồi 3
năm, hàng trăm ngàn cựu quân nhân, viên chức chính quyền miền Nam vẫn biền biệt
không về, vẫn còn phải chịu đọa đày trong các trại tập trung rải rác khắp nơi
trên đất nước.
Lúc đó gia đình những người đi cải tạo mới biết
mình bị lừa. Sự lừa dối ấy, cùng với những hệ quả đau thương khác của chính
sách cải tạo, dường như đã đâm một nhát dao vào ngực người dân miền Nam, đã đào
một con sông ngăn cách lòng người Nam Bắc. Vết thương ấy giờ vẫn còn đang rỉ
máu; con sông ấy giờ vẫn còn rất rộng và chưa có cầu nối liền hai bờ.
Và tôi viết tiếp câu trả lời bằng một bài thơ.
BỜ
VẪN QUÁ XA
(Tặng bạn thơ Trịnh Anh Đạt và cô vợ người
Hoa)
Tôi, người lính Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù
năm 75, 29 tháng tư
khi đoàn tàu chở đơn vị tôi
chuẩn bị rời Vũng Tàu hướng ra Đông Hải
thương cha mẹ già, đàn em dại
tôi bước lên bờ
ở lại quê hương
Nhưng cha mẹ già chưa được gặp
cũng chưa thấy mặt đàn em
các anh, những người chiến thắng
súng dí sau lưng
đẩy tôi vào trại tập trung
Rồi bằng những lời dối trá
trái tim vô tình
tia nhìn thù hận
các anh cướp mất của tôi
những tháng năm đẹp nhất cuộc đời
Tôi có người bạn
đói lòng moi mấy củ khoai
các anh đập nát xương bàn tay
mãi mãi mang thương tật
Một người khác
lâu ngày thèm thịt
chụp vội con nhái bên đường
bỏ vào mồm nuốt chửng
báng súng AK
các anh lao vào ngực, vào bụng
cho đến khi con nhái phòi ra
con nhái lúc vào màu xanh
lúc ra thành màu đỏ
Tôi trở về trên đôi nạng gỗ
nhìn nhà dột, cột lung lay
cha chết đọa đày
các em tứ tán
mẹ tuổi già, sức yếu
vẫn giãi nắng, dầm sương
tôi cắn răng lìa bỏ quê hương
tìm sự sống
Trở về thăm quê mấy lần
trên đường từ Nam ra Bắc
tôi cũng đôi khi nếm được
chút dư vị của chiến tranh
Tôi gặp cả thương binh
từ hai phía
kẻ chống nạng, người ngồi xe lăn
kẻ mất tay, người sẹo đầu, vẹo cổ
Họ buồn tủi vì phải sống đời đói khổ
nhưng không thấy ai lên tiếng oán hờn
với họ, giữa chiến trường
“chuyện thường tình mũi tên hòn đạn.”
Ở Mỹ, tôi quen vợ chồng người Hoa
vợ cô giáo, chồng luật sư
yêu nhau tha thiết
nhưng định mệnh trớ trêu, oan nghiệt
cô vợ bị hiếp dâm
ít lâu sau đẻ thằng con
đen như cột nhà cháy
Anh chồng ôm mặt khóc như điên như dại
chạy ra khỏi phòng sanh
vợ tay nắm chặt thành giường
ngất lịm
Trở về nhà
cô vợ trẻ người Hoa
đã có thể gạt nước mắt cho đi đứa con
khác màu da
để mỗi ngày người chồng
khỏi thấy vết thương lòng
bị chà đi, xát lại
Nhưng các bạn tôi
làm sao có thể chặt bỏ bàn tay của
mình?
làm sao có thể cắt bỏ lá phổi của
mình?
nên mỗi lúc trở trời,
đau đớn
lại nhớ đến các anh
Không giống những thương binh
(mũi tên hòn đạn vô tình)
các bạn tôi mang thương tật
bởi đôi tay độc ác
bởi trái tim độc ác
của các anh
Sau chiến tranh
đối xử với những người ở bên kia chiến
tuyến
nhưng cùng tiếng nói, màu da
biết bao nhiêu phương cách đưa ra
các anh chọn phương cách tàn độc nhất
Các anh đã tự đào dòng sông ngăn cách
nay lại ngồi chễm chệ trên bờ
í ới vẫy chúng tôi qua
tiếc rằng…… bờ vẫn… quá xa.
Thấy tôi mon men ở bên này bờ sông Trịnh Anh Đạt
đã lội ra đón tôi ở giữa dòng. Cứ mỗi dạo ngồi bên nhau uống chè nói chuyện
thơ, dòng sông ấy trong tôi lại hẹp đi một ít. Một lần tôi ngồi ăn kẹo, uống
chè với anh Đạt và vợ anh- chị Hoa- nói chuyện tình yêu, gia đình, nuôi dạy con
cái. Không khí thật đầm ấm, vui vẻ. Tôi có cảm giác như mình đang ngồi trong
nhà mình, trò chuyện với những người thân trong gia đình mình.
Lúc ấy dòng sông trong lòng tôi cứ hẹp dần, hẹp
dần. Cuối cùng chỉ còn như sợi tơ óng ánh trên mặt đất.
Tiếc thay, còn quá ít Trịnh Anh Đạt, quá ít Trần
Nhương. Và vẫn chưa ai nghĩ đến chuyện bắc cầu. Hình như họ còn chưa biết, hoặc
chưa muốn công nhận, đã hiện hữu một dòng sông như thế.
Viết xong tháng chạp năm Canh Dần
(tháng 1 năm 2011)
Thật đáng buồn là BỨC TƯỜNG BÉC-LIN ĐÃ SỤP ĐỔ TỪ LÂU, NHƯNG BỨC TƯỜNG CHIA RÉ CON LẠC CHÁU HỒNG ĐÃ GẦN 50 NĂM QUA, KỂ TỪ 30-4-1975 VẪN SỪNG SỮNG, NGĂN CÁCH TÂM HỒN NGƯỜI VIỆT !
ReplyDeleteVà vẫn chưa ai nghĩ đến chuyện bắc cầu. Hình như họ còn chưa biết, hoặc chưa muốn công nhận, đã hiện hữu một dòng sông như thế.
Delete