TỐNG BIỆT HÀNH: LỜI BÌNH VÀ TRANH LUẬN
TỐNG BIỆT HÀNH:
LỜI BÌNH VÀ TRANH LUẬN
Bài 1:
TỐNG BIỆT HÀNH – KHEN CHÊ CHƯA ĐÚNG
MỰC
Tống Biệt Hành của Thâm Tâm được báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy
đăng năm 1940. Chỉ hơn một năm sau, nó đã được Hoài Thanh chọn đưa vào tuyển
tập Thi Nhân Việt Nam với những lời nhận xét:
Thơ thất ngôn của ta bây giờ thực có khác thơ thất ngôn
cổ phong. Nhưng trong bài dưới đây (Tống biệt hành) lại thấy sống lại cái không
khí riêng của nhiều bài thơ cổ. Điệu thơ gấp, lời thơ gắt, câu thơ rắn rỏi, gân
guốc, không mềm mại uyển chuyển như phần nhiều thơ bây giờ. Nhưng vẫn đượm chút
bâng khuâng khó hiểu của thời đại. (1)
TỐNG BIỆT HÀNH (2)
Đưa người, ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Đưa người ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình một dửng dưng…
Li khách! Li khách! Con đường nhỏ
Chí nhớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm mẹ già cũng đừng mong
Ta biết người buồn chiều hôm trước
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót
Ta biết người buồn sáng hôm nay:
Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…
Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu cay (3)
Bài
thơ không có phép ẩn dụ toàn bài nên tứ và ý giống nhau. Những bài viết khác đã
giải thích và diễn dịch khá kỹ lưỡng nên ở đây tôi xin đi thẳng vào phần phân
tích và nhận định nghệ thuật.
Bốn Câu Thơ Mở Đầu Thật Tuyệt.
Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Mấy
câu thơ hay quá! Tứ thơ đẹp quá! Âm điệu mới lạ do phá cách trong luật bằng
trắc lôi cuốn được sự chú ý của người đọc ngay từ giây phút đầu tiên. Hai câu
đầu là tâm sự, cảm xúc của người đưa tiễn: Không
đưa người qua sông nhưng sao lòng ta nôn nao như sóng vỗ. Hai câu sau là tâm
tình kẻ ra đi qua sự nhận xét tinh tế của người đưa tiễn: Chỉ
nhìn đôi mắt, ta cũng biết người buồn lắm vì trong đôi mắt ấy chứa cả bóng
hoàng hôn.
Để tả cảnh tiễn biệt, chia ly, 4 câu thơ trên có thể hiên
ngang đọ sức về giá trị nghệ thuật với bất kỳ đoạn thơ nào, ngay cả của thơ ca
đương đại, mà không hề nao núng.
Âm Điệu Gân Guốc, Rắn Rỏi.
Thơ
Mới thời bấy giờ cổ vũ ý tưởng mới, ngôn ngữ mới, thể thơ mới, đề tài mới…
nhưng vẫn tôn trọng một số âm luật cũ để giữ được âm điệu mềm mại, du dương
trong thơ. Tống biệt hành được cấu trúc bằng phương thức nghịch âm bất tuân
những niêm luật vốn có của thể hành.
Nó
cũng chẳng tôn trọng âm luật của thơ mới. Có câu toàn thanh bằng: Đưa
người ta không đưa qua sông; có câu có đến 4 thanh trắc liên tiếp: Sao
có tiếng sóng ở trong lòng? Bởi vậy âm điệu của nó không uyển
chuyển, du dương như phần nhiều thơ thời bấy giờ, thay vào đó,
điệu thơ gấp, lời thơ gắt, câu thơ rắn rỏi gân guốc. Đó là nét
rất độc đáo của Tống Biệt Hành. Nhờ đó, mới ra lò nó đã được sự chú tâm, ưu ái
của Hoài Thanh.
Gợi Được Không Khí Hào Hùng
H.
Linh trong bài Đến Với Bài Thơ Hay: Tống Biệt Hành Của Thâm Tâm, đã viết:
Đề tài bài thơ là một trong hằng hà sa số những cuộc ly
biệt được đưa vào “Thơ Mới” thời 1930 – 1945. Nhưng có lẽ trong văn học Việt
Nam, trước và sau Thâm Tâm, không ai viết về chia ly đầy tính bi hùng, trữ tình
và mãnh liệt đến như thế.
Không rõ “Tống Biệt Hành” có gì “khó hiểu”? Nhưng rõ ràng
khi đọc, tôi thấy thật “bâng khuâng”. Vẻ trầm hùng, cổ kính của bài thơ cùng
những hình ảnh “mong manh, ghê rợn, như những nhát dao xiết vào tâm hồn, tưởng
là rất nhẹ hóa ra lại rất nặng” gây nên một ấn tượng thật mạnh và sâu đến người
đọc. (4)
Còn
Nguyễn Hưng Quốc nhận xét khách quan hơn, chính xác hơn:
Chị, em và người yêu lưu luyến thế ấy, chẳng lẽ lại đành
tâm ra đi? Nhưng ly khách lại đi thật. Bóng đã xa, người đưa tiễn còn ngơ ngác
đứng và hun hút nhìn :
Người đi? ừ nhỉ, người đi thực
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu say
… li
khách tuy ngậm ngùi nhưng nét chính vẫn là sự nghênh ngang, hào sảng. Thấp
thoáng chút hùng khí đời xưa. Phảng phất hình ảnh Kinh Kha ngày trước. Rất đẹp.
Biết là cường điệu mà vẫn thấy đẹp. (5)
Có lẽ
ưu điểm lớn nhất, thành công lớn nhất của Tống Biệt Hành là gợi lại được cái
cảnh tượng bi tráng của cuộc đưa tiễn Kinh Kha qua sông Dịch. Cái thần tình của
Thâm Tâm là ông không nhắc gì đến Thái Tử Đan, Kinh Kha, Tần Thủy Hoàng, không
nhắc gì đến con sông Dịch; ông chỉ gián tiếp, bóng gió rất xa xôi, bằng việc
chọn thể hành cổ kính, đề tài tống biệt quen thuộc, chất liệu thơ xưa cũ, và
chỉ có thế cũng đã đủ khiến người đọc không thể không cảm thấy như chính mình
đang hít thở cái không khí trầm hùng của cuộc chia ly ấy.
Ngôn Ngữ Thơ Trong Tống Biệt Hành
Theo
Chu Mộng Long thì:
Bài thơ (Tống Biệt Hành) phục sinh một cách toàn diện
những gì tưởng chừng đã bị khai tử: thể hành cổ kính, đề tài tống biệt với
người ra đi – li khách xưa cũ, kể cả chất liệu thơ: sông, sóng, bóng chiều,
hoàng hôn, sen, lệ, màu thu, lá bay, hạt bụi, hơi rượu say quen thuộc đến mức
đã mòn về nghĩa… (6) với ý nhại cổ (giễu nhại : parody)
Theo tôi, Thâm Tâm không
phục cổ hoặc nhại cổ mà chỉ gợi cổ.
Chỉ
với những từ sông, sóng, bóng chiều, hoàng hôn rất cũ, rất xưa, Thâm Tâm đã tạo
nên 4 câu thơ tuyệt vời:
Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Và cũng với chất liệu thơ cũ
mòn cộng với thể hành cổ kính và đề tài tống biệt quen thuộc đã góp phần rất
quan trọng vào việc gợi lại không khí trầm hùng, bi tráng trong bài thơ.
Nhưng
cũng với những từ cũ như: sen, lệ, mùa thu, mắt biếc, chiếc khăn tay, ông đã
viết nên 2 đoạn thơ:
Ta biết người buồn chiều hôm trước
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót
Ta biết người buồn sáng hôm nay:
Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…
không
những tầm thường mà lại còn hơi “sến” nữa.
Cho nên nếu thi sĩ khám phá được thể thơ mới, đề tài mới,
chất liệu thơ mới thì, dĩ nhiên, rất đáng hoan nghênh. Tuy nhiên, những thứ “mới” ấy chỉ
thực sự có giá trị khi nhờ chúng thi sĩ đưa được những câu thơ mới, hình tượng
mới, trong đó chứa đầy cảm xúc mới của mình, vào thơ. (7)
Nhưng dù thế nào đi nữa
cũng không nên coi thường thứ ngôn ngữ, chất liệu thơ xưa cũ hoặc giản dị. Nếu
bài thơ vừa mới vừa hay vừa đẹp thì sẽ được độc giả nồng nhiệt đón chào, ngả mũ
bái phục; còn nếu chỉ có mới không thôi thì nó cũng sẽ sớm đi vào quên lãng như
hằng hà sa số những bài thơ dở khác.
Đoán Tâm Trạng Của Người Khác
Nước trong, cá tung tăng, cá vui đấy.
Anh không là cá sao anh biết cá vui?
Anh không là tôi sao anh biết tôi không biết cá vui?
Trên
đây là mẩu đối thoại của hai triết gia Trung Hoa (tôi quên tên) ý muốn nói rằng
“không thể biết được những suy nghĩ, tâm trạng của người khác”. Theo tôi, nếu
có óc quan sát tinh tế, thì trong khá nhiều hoàn cảnh, người ta có thể nhận
biết được đối tượng (được quan sát) đang vui, buồn hay dửng dưng, vô cảm. Nhưng
nếu muốn đặc tả tâm trạng, muốn đi vào chi tiết của niềm vui, nỗi buồn thì duy
nhất chỉ có người trong cuộc. Đó là lý do thi sĩ thường viết ở ngôi thứ nhất.
Trong
Tống Biệt Hành, tác giả có đến 5 trường hợp đoán tâm trạng người khác.
1. “Bóng
chiều không thắm, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong”
Nhìn
đôi mắt “đầy hoàng hôn” của bạn tôi đoán là bạn đang buồn. Điều này có thể chấp
nhận được. Đôi mắt là cửa sổ linh hồn, vui buồn thể hiện lên đôi mắt.
2. “Một
giã gia đình một dửng dưng”
Nhìn
khuôn mặt vô cảm của bạn tôi biết bạn dửng dưng trước cuộc chia ly.
3. Ta
biết người buồn chiều hôm trước
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót
4. Ta biết người buồn sáng hôm nay:
Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…
Nhìn cảnh
bịn rịn, quyến luyến của chị, của em với bạn, tôi đoán bạn rất buồn khi chia
ly.
5. Ba câu
cuối của bài thơ
Ở 4
trường hợp đầu tác giả đã sử dụng khả năng quan sát tinh tế của mình để cảm
nhận nỗi buồn (hoặc dửng dưng) của ly khách. Có lẽ ông đã áp dụng kinh nghiệm
của các cụ ngày xưa qua câu ca dao:
Trông mặt mà bắt hình dong
Con lợn có béo bộ lòng mới ngon.
Điều
này có thể tạm chấp nhận được, vì đó chỉ là nỗi buồn chung chung, không đặc tả,
không có chiều sâu. Tuy nhiên, sử dụng phương pháp này trong thơ thì hơi bị…
thất cách, sức thuyết phục đối với độc giả rất yếu. Bởi tục ngữ cũng có câu
“xanh vỏ đỏ lòng”; nhìn bề ngoài mà “bắt mạch tâm trạng” thì rất dễ bị “bé cái
lầm”. Còn riêng trường hợp thứ 5 thì phải nói là “vô phương bào chữa”. Đoán tâm
trạng người khác mà thi sĩ dám viết chi
li đến độ:
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu cay…
thì
quả là “liều” hết chỗ nói.
Dẫu
biết rằng trong thực tế thì tâm trạng của kẻ ra đi hay người đưa tiễn cũng đều
là của Thâm Tâm, nhưng đã lập trận địa chữ nghĩa, phân công phân nhiệm tướng
sĩ, thì vai nào phải ra vai đó; người phàm mắt thịt mà cứ như là Tiên, Thánh,
đọc tâm ý người đối diện vanh vách như đọc tờ báo trước mặt thì coi sao được.
Theo tôi, đây là khuyết điểm lớn, làm giảm sức thuyết phục của bài thơ.
Phú Quý Giật Lùi
Đọc
bài thơ Tống Biệt Hành chắc không ít độc giả có nhận xét giống tôi. Đoạn đầu hay quá, tuyệt quá, để lại hương vị thật ngọt
ngào, sảng khoái. Nhưng đến những đoạn sau, đoạn thì cường điệu, giả tạo, đoạn
thì tầm thường, nhạt nhẽo. Đoạn cuối thì cảm xúc dâng trào, hào khí bốc cao
nhưng đó chỉ là cảm xúc, hào khí kiểu quân tử Tàu, vừa khinh bạc, vừa vô tình,
hơn nữa, chỉ là sản phẩm từ sự võ đoán của người đưa tiễn.
Tôi
đã có một đôi lần, vào các dịp lễ tết, xem văn nghệ tại các chùa, nhà thờ gần
nhà. Vài Phật tử, con cái Chúa là ca sĩ chuyên nghiệp, từ Cali bay sang hát
“sô”, nhân tiện ghé vào chùa, nhà thờ hát ủng hộ mấy bài. Họ yêu cầu được xếp
hát ở đầu chương trình để còn “chạy” chỗ khác.
Thế
là chương trình văn nghệ có vài tiết mục đầu hấp dẫn, còn sau đó là “cây nhà lá
vườn”. Tôi không có ý phủ nhận thiện chí, tinh thần phục vụ của các em trong
Gia Đình Phật Tử, Thiếu Nhi Thánh Thể, nhưng rõ ràng cái không khí hào hứng của
chương trình văn nghệ, sau mấy tiết mục đầu, đã giảm đi, đã nhạt đi rất nhiều.
Cũng
tương tự như vậy, các vị khách mời trong buổi tiệc thơ Tống Biệt Hành, nếu
không bị hơi men làm mờ mắt, sẽ thấy phẩm chất của rượu thì “phú quý giật lùi”,
càng về sau càng kém ngon, càng về sau càng “dởm”. Đây cũng là một lỗi không
nhỏ của thi sĩ trong việc dàn trải ý tứ.
Những Lời Khen + Những Lời Tán Dương Quá Lố
Trong
thời gian tra cứu để viết bài này tôi thấy một điều rất lạ là hàng mấy chục bài
viết liên quan đến Tống Biệt Hành, bài nào cũng vậy, đều hết mực ngợi khen. Tay
viết nào già giặn thì lời khen văn hoa bay bướm, kém hơn thì sao chép nguyên ý
của các bậc lão thành, đàn anh, chỉ đổi sơ lời văn, giọng văn cho nó thành của
mình. Đặc biệt trong trang mạng của các trường đại học, trung học thì các bài
bình Tống Biệt Hành đều rập khuôn, đều ca tụng đến tận trời xanh.
Sau
đây là một lời khen “hơi mạnh miệng”:
Khi sáng tác “Tống biệt hành”(1940) có lẽ Thâm Tâm cũng
không ngờ rằng bài thơ của mình sẽ để lại nhiều ẩn số cho hậu thế. Cuộc đời của
ông ngắn ngủi. Tác phẩm ông để lại không nhiều. Nhưng chỉ với một “Tống biệt
hành”, ông đã được lưu danh vào lịch sử văn học nước nhà. “Tống biệt hành”
không chỉ là một trong những bài thơ hay nhất của phong trào Thơ Mới mà
còn xứng đáng là một kiệt tác của thơ Việt Nam hiện đại. (12)
Và kế
tiếp là thí dụ về một “vẻ đẹp tưởng tượng” của một nhà phê bình văn học có vai
vế, có học vị, Thạc Sĩ Hồ Thúy Ngọc:
Kế thừa nhưng không lặp lại, Thâm Tâm đã tạo nên sức sống
diệu kỳ cho Tống biệt hành. Đặc biệt, sự kế thừa, sáng tạo trong cấu tứ thơ
Đường giúp tác giả thể hiện sâu sắc một cái nhìn đa chiều về “vẻ đẹp con người
cao cả trong toàn bộ sự biểu hiện chân thật của nhân tính, đầy tinh
thần nhân đạo”(13)
Nhưng
Chu Mộng Long lại nghĩ khác. Theo ông, trong Tống Biệt Hành:
Kẻ ra đi chỉ có hành động mà không có nội tâm: một giã gia đình, một dửng dưng; chỉ có lí tưởng mà
coi thường tình cảm: Chí nhớn chưa về bàn tay không; đề cao lí
tưởng mà quên tình ruột thịt: Thì không bao giờ nói trở lại!/ Ba năm
mẹ già cũng đừng mong. (14)
Và vô tình nhất, theo tôi, có lẽ là 3 câu cuối của bài
thơ
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu cay…
Vì
chí lớn, vì nghiệp lớn, vì lý tưởng, vì đại nghĩa, vì quê hương đất nước ra đi,
thân này kể bỏ; những người thân yêu ruột thịt cũng coi như không, nói chi đến
bạn bè. Ngay cả người gần gũi nhất là bà mẹ đã banh da xé thịt cho mình được
chào đời, cũng chỉ xem như là chiếc lá bay.
Cạn
một ly rượu để hơi men bừng lên đôi mắt. Lúc ấy trên vai là gói hành trang, đâu
đó vọng lại tiếng gọi của bạn bè đồng trang lứa, và trước cổng nhà là con đường
rộng mở dẫn đến tương lai. Mạnh bước ra đi. Khác gì Kinh Kha, theo lời ủy thác
của Thái Tử Đan qua sông Dịch thực hiện một sứ mạng trọng đại cứu muôn vạn dân
lành. Ôi hiên ngang quá! Hào hùng quá! Lãng mạn quá! Nhưng nghe sao cũng vô
cùng khinh bạc, thiếu tình người, nếu không muốn nói là vô nhân đạo.
Tôi
không cổ võ cho việc chạy chọt để lánh né chiến trường, an thân ở hậu phương
lúc nước nhà nguy biến, nhưng cái thái độ vô tình, coi nhẹ gia đình, coi
nhẹ những người thân yêu ruột thịt, như li khách, thật khó mà đồng cảm.
Chúng
ta hãy nghe Yên Thao bày tỏ tâm sự lúc chia tay người vợ đầu gối, tay ấp của
mình:
Tôi có người vợ trẻ
đẹp như thơ
tuổi chớm đôi mươi, cưới buổi dâng cờ
má trắng mịn thơm thơm mùi lúa chín
ai ra đi mà không từng bịn rịn?
rời yêu thương nào đã mấy ai vui?
em nhìn tôi e ấp buổi chia phôi
tôi dấn bước mà nghe hồn nhỏ lệ. (15)
(Nhà Tôi, Yên Thao)
Đó
mới là có chút tình người; đó mới tạm gọi là có hơi hám của nhân bản, nhân đạo.
Người lính chiến trong Yên Thao vẫn chấp nhận ra đi làm nghĩa vụ của mình,
nghĩa vụ của trai thời loạn, nhưng là con người, trái tim không phải là sỏi đá,
nên khi “dấn bước” lên đường đã đau thương đến độ “nghe hồn nhỏ lệ”. Còn như
Thâm Tâm:
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu cay…
thì
quả là quá cứng cỏi, quá lạnh lùng và quá vô tình.
Thạc
Sĩ Hồ Thúy Ngọc trích lời Trần Đình Sử cho là “sự biểu hiện chân thật của
nhân tính, đầy tinh thần nhân đạo” thì quả là có óc tưởng tượng cực kỳ
phong phú.
Vài Lý Do
Tống
Biệt Hành là bài thơ hay, nổi tiếng, được rất nhiều người biết đến và yêu mến.
Có điều mức độ nổi tiếng của nó lại không tương xứng với giá trị nghệ thuật, có thể
nói, đã vượt khá xa giá trị nghệ thuật. Sau đây là một vài lý do:
1/ Tống
Biệt Hành lọt vào mắt xanh của Hoài Thanh – một cây bút bình thơ sắc sảo, uy
tín vào hạng nhất thời bấy giờ – và được ưu ái giới thiệu trong Thi Nhân Việt
Nam. Các bài viết về Tống Biệt Hành sau này, vì uy tín của Hoài Thanh và Thi
Nhân Việt Nam, không tiếc lời ca ngợi bài thơ, nhiều khi bịa ra “những cái đẹp
tưởng tượng” để tán dương.
2/ Tống
Biệt Hành được đưa vào chương trình giảng dạy văn học; dựa vào mấy bài mẫu của
ngành giáo dục, sinh viên học sinh cứ thế mà “tụng”, mà khen bài thơ đến tận trời
xanh.
3/ Những người có ý kiến khác
biệt cũng không dám bày tỏ vì đang sống và chịu ảnh hưởng của một môi trường
văn học chưa được tự do; viết khác đi dễ bị để ý, trù dập.
Như
vậy, Tống Biệt Hành được rất đông đảo người đọc biết đến, khen hay, rồi yêu
thích, dĩ nhiên, một phần là vì giá trị nghệ thuật của nó, nhưng cũng còn vì
những “cái khác” (rất ngoài thơ) nữa. Khi rũ sạch hết những “cái khác” ấy, Tống
Biệt Hành sẽ trần trụi hiện ra, không xiêm y lụa là của thời đại; bên cạnh
những nét đẹp độc đáo cũng còn không ít những khuyết điểm khá quan trọng liên
quan đến cả ý tưởng và kỹ thuật thơ.
Khi
được thả hồn mình đắm chìm trong không khí trầm hùng bi tráng của cuộc chia tay
lịch sử trên sông Dịch, người đọc dù nhận ra những “bất ổn” trong bài thơ, cũng
cố lờ đi, để nghe trái tim mình đập nhanh hơn, để thấy hào khí bốc lên ngút
trời, vì chí nhớn mà nhảy vào biển lửa cũng không một giây do dự.
Tôi,
với cái nhìn chủ quan của mình, đã cố công phân tích, bình phẩm bài thơ Tống
Biệt Hành. Trước hết, để đưa nó về vị trí tương xứng với giá trị nghệ thuật của
nó. Sau nữa, nếu có quý vị nào làm công tác phê bình văn học, có tầm nhìn rộng
hơn, muốn đánh giá bài thơ trong một khung cảnh rộng lớn hơn, trong một giai
đoạn lịch sử dài hơn, thì bài viết này xin được đóng vai trò một lời góp ý nho
nhỏ trong kho tư liệu của quý vị.
KẾT LUẬN
Khi
biết tôi có ý định viết về Tống Biệt Hành, một anh bạn bắc kỳ 54, cũng thuộc
giới cầm bút, đã nhắc nhở:
“Bài Tống Biệt Hành của Thâm Tâm có một sức hút rất
lớn đến hai thế hệ chiến tranh của Việt Nam (thế hệ đàn anh của mình và thế hệ
của tôi và anh). Đơn giản: chúng diễn tả và đáp ứng đúng tâm trạng những người
trai vừa lớn lên phải đối mặt với chiến tranh (chiến tranh chống Pháp, chiến
tranh chống Cộng). Nhưng với các thế hệ đàn em, sức hút của bài thơ không lớn,
nếu có chăng chỉ là tầm vóc nghệ thuật mà bài thơ ấy có được. Vì thế, khi viết
về bài thơ này, phải hết sức cẩn trọng (trong lời chê). Người đọc (thế hệ chúng
ta) mang tâm trạng như đọc về quá khứ của mình, trong đó chỗ đứng của bài thơ
này chiếm vị trí rất trang trọng.”
Trước
tiên, tôi sẽ nghe lời khuyên của anh – “hết sức cẩn trọng” trong phần viết về
khuyết điểm của bài thơ. Tôi cũng đồng ý với anh là thế hệ kế tiếp của anh và
tôi – không bị ảnh hưởng bởi cái sức hút vô hình kia – sẽ có được cái nhìn
chính xác hơn về giá trị của bài thơ. Nhưng khi nhìn qua cửa sổ, thấy những
chiếc xe bus vàng đón trẻ con đi học, tôi chợt nhớ mình đang sống trên nước Mỹ
tự do.
Trước
những trào lưu văn học mới, Thi Nhân Việt Nam (Hoài Thanh) cũng không còn là
“khuôn vàng thước ngọc” (ít nhất đối với tôi), và ở cái tuổi trên 6 bó của cuộc
đời, hào khí của Kinh Kha cũng không đủ sức mê hoặc tôi đến mức khi đọc Tống
Biệt Hành có thể quên đi công việc của mình đang làm là thẩm định giá trị nghệ
thuật của bài thơ.
Như
vậy, công việc ấy tại sao cứ phải chờ đến thế hệ sau, anh nhỉ?
Viết
xong cuối tháng 1 năm 2014
Phạm Đức Nhì nhidpham@gmail.com
Chú Thích:
(1)
Thi Nhân Tiền Chiến, Hoài Thanh & Hoài Chân, NXB Văn Học, 1988, tr.281
(2)
Nhận Diện Chân Dung Nhà Văn, Lý Hồng Xuân, Văn Nghệ, 2000, tr. 261
(3)
Nhiều bản khác viết là say. Khi trích tôi giữ nguyên bản chính.
(4)
Đến Với Bài Thơ Hay: Tống Biệt Hành Của Thâm Tâm, H. Linh, thuonghylenien.com
(5)
Tứ Thơ, Nguyễn Hưng Quốc, Tìm Hiểu Nghệ Thuật Thơ Việt Nam, Quê Mẹ xuất bản tại
Paris, 1988
(6),
(7), (14) Phục Cổ Hay Nhại Cổ? Trường Hợp Tống Biệt Hành, chumonglong.wordress.com. Ông Chu Mộng Long, hiện đang giảng dạy tại Đại Học Quy
Nhơn, cho biết bài viết đã được đăng trên Tạp Chí Thơ, Hội Nhà Văn, 06/2008.
(8),
(9), (10), (11) Nhận Diện CDNV, Lý Hồng Xuân, Văn Nghệ, 2000, tr. 261
(12)
Hoàng Trọng Hà, Vài Suy Nghĩ Về Bài Thơ Tống Biệt Hành, baolamdong.vn
(13)
Vẻ Đẹp Cổ Điển Và Hiện Đại Trong Tống Biệt Hành Của TT, Thạc Sĩ Hồ Thúy Ngọc
(Trích lời Trần Đình Sử), htu.edu.vn/khoa-su-pham-xa-hoi-nhan-van
(15)
Đoạn thơ trên được lưu truyền trong các sinh hoạt văn học, văn hóa, văn nghệ ở
miền nam; tôi thuộc lòng vì thường hay diễn ngâm trong các buổi nghệ. Còn đoạn
dưới đây được trích trong sách báo dòng chính ở miền bắc.
Tôi có người vợ trẻ
đẹp như thơ
tuổi chớm đôi mươi, cưới buổi dâng cờ
má trắng mịn thơm thơm mùa lúa chín
ai ra đi mà không từng bịn rịn?
rời yêu thương nào đã mấy ai vui?
em lặng buồn nhìn với lúc chia phôi
tôi mạnh bước mà nghe hồn nhỏ lệ.
(Thơ VN/Thế Kỷ XX/Thơ Trữ Tình/NXB Giáo Dục/2004)
Mạnh bước có vẻ
không ăn khớp lắm với nghe hồn nhỏ lệ. Dấn bước nghe
hợp hơn và hay hơn nhiều.
Bài 2: ĐỌC “TỐNG BIỆT
HÀNH” THƠ THÂM TÂM
Châu
Thạch
Văn Nghệ Quảng Trị
TỐNG BIỆT HÀNH
Đưa người, ta không đưa
qua sông
Sao có tiếng sóng ở
trong lòng?
Bóng chiều không thắm,
không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong
mắt trong?
Đưa người ta chỉ đưa
người ấy
Một giã gia đình một
dửng dưng…
Li khách! Li khách! Con
đường nhỏ
Chí nhớn chưa về bàn tay
không
Thì không bao giờ nói
trở lại!
Ba năm mẹ già cũng đừng
mong
Ta biết người buồn chiều
hôm trước
Bây giờ mùa hạ sen nở
nốt
Một chị, hai chị cũng
như sen
Khuyên nốt em trai dòng
lệ sót
Ta biết người buồn sáng
hôm nay:
Giời chưa mùa thu, tươi
lắm thay
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt
biếc
Gói tròn thương tiếc
chiếc khăn tay…
Người đi? Ừ nhỉ, người
đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá
bay
Chị thà coi như là hạt
bụi
Em thà coi như hơi rượu
cay ./.
Thâm Tâm
Lời Bình: Châu Thạch
Bài thơ “Tống Biệt Hành”
được nhà thơ Thâm Tâm sáng tác vào khoảng năm 1940. Kể từ khi ra đời đến nay đã
trên 75 năm bài thơ luôn luôn được yêu thích và đã được đưa vào sách giáo khoa
của học đường.
Hành là một thể thơ cổ,
thường được sử dụng để diễn tả một tâm trạng bi phẫn, bi hùng. Bài thơ “Tống
Biệt Hành” của Thanh Tâm có hai nhân vật, người đưa tiễn và người ra đi. Tâm
trạng của người ra đi được biểu hiện qua lời của người đưa tiễn và ngược lại,
tâm trạng của người đưa tiễn cũng là tình cảm của người ra đi.
Vào đề với bốn câu thơ,
tác giả đã cho ta nghe sự va đập dồn dập của nhiều âm thanh:
Đưa người, ta không đưa
qua sông
Sao có tiếng sóng ở
trong lòng?
Bóng chiều không thắm,
không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong
mắt trong?
Vế thơ có nhiều chữ
“không” và lạ thay, nội chứa trong chữ “không” đó nẩy sinh chữ “có”: Không sông
thì lại có tiếng sóng, không thắm thì có mắt trong, không vàng vọt thì có hoàng
hôn. “Không” và “có” là hai từ đối lập nhau, lại hoà hợp trong vế thơ nầy, tạo
thành âm thanh biểu hiện nỗi ấm ức trong lòng.
Đọc vế thơ ta thấy ngay
nhiều nghịch lý xảy ra giử cảnh và người đưa tiễn cũng như người ra đi. “Đưa
người, ta không đưa qua sông/ Sao có tiếng sóng ở trong lòng?” là nghịch lý xảy
ra đối với người đưa tiễn, và “Bóng chiều không thắm, không vàng vọt/ Sao đầy
hoàng hôn trong mắt trong?” là nghịch lý xảy ra đối với người ra đi. Khung cảnh
bên ngoài đối chọi với tình cảm trong lòng là một nghệ thuật điêu luyên trong
sáng tác.
Tác giả dùng phương pháp
“tá khách hình chủ” nghĩa là mượn cái nầy để làm nổi bật cái kia giống như
Nguyễn Du đã dùng cái đẹp của Thuý Vân để gần cái đẹp của Thúy Kiều, làm cho Thúy
kiều nổi bật thêm lên. Ở đây Thâm Tâm đã dùng hai sự kiện “không” và “có”, mục
đích dùng cái không của không gian để làm nổi cộm lên cái có trong tâm hồn. Cái
có ở đây là nỗi buồn ly biệt.
Qua vế thứ hai của bài
thơ:
Đưa người, ta chỉ đưa
người ấy
Một giã gia đình một
dửng dưng...
Li khách! Li khách! Con
đường nhỏ
Chí lớn chưa về bàn tay
không
Thì không bao giờ nói
trở lại!
Ba năm mẹ già cũng đừng
mong
Đoạn nầy ý nói người ra
đi sẽ không quay về khi chí lớn chưa thành, dầu mẹ có chết ba năm sau ngày giáp
cử cũng không về để tang mẹ được. Những câu thơ ở vế thơ nầy thật rắn rỏi nêu
lên sự quyết tâm của người ra đi vì chí lớn. Lời thơ như hịch xuất quân, như
lời thề non nước.
Qua hai vế thơ kế tiếp
như sau:
Ta biết người buồn chiều
hôm trước
Bây giờ mùa hạ sen nở
nốt
Một chị, hai chị cũng
như sen
Khuyên nốt em trai dòng
lệ sót
Ta biết người buồn sáng
hôm nay:
Giời chưa mùa thu, tươi
lắm thay
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt
biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc
khăn tay...
Đoạn nầy có tác giả bình
thơ nhận xét rằng “Không những tầm thường mà còn hơi “sến” nữa”. Thật ra nhà thơ
Thâm Tâm rất rành tâm lý. Ở hai vế thơ trên biểu hiện niềm đau quặn thắt trong
lòng người đưa tiễn, sự xúc động đã dâng lên cao độ khi thốt lên tiếng kêu đau
thương “Li khách! li khách!”.
Qua hai vế thơ nầy lời
thơ trở nên kể lể vì niềm đau đã được nén xuống, hơi thở nhẹ đi, con tim bình
tịnh lại. Nỗi đau không còn là ngọn lửa bùng lên nữa mà bây giờ nó là ngọn lửa
âm ỉ đốt cháy trong lòng. Lời thơ kể lể ở đây không phải là “tầm thường”, không
phải là “sến” mà nó là dàn nhạc trầm lặng da diết, sau khúc nhạc gầm thét diễn
tả nỗi đau trong lòng nhân vật.
Vế chót của bài thơ như
sau:
Người đi? Ừ nhỉ, người
đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá
bay
Chị thà coi như là hạt
bụi
Em thà coi như ly rượu
cay
Có người cho rằng vế thơ
nầy “Quá cứng cỏi. lạnh lùng và vô tình”. Thật ra đây là một vế thơ rất
hay, nó cho thấy bút pháp tài hoa của tác giả. Những điều mà người ra đi phủ nhận
trong vế thơ nầy chính là những điều mà người ra đi canh cánh bên lòng. Chữ
“thà” ở đây không có nghĩa là “xem như không có” mà chữ “thà” ở đây có nghĩa là
“không bỏ đi được”.
Nếu người ra đi ngày ấy
xem mẹ như lá, chị như bụi và em như ly rượu cay thì người đó không đáng để đưa
vào thơ. Ta hãy đọc một đoạn thơ có chữ “thà” trong bài “Khúc Tình Buồn” của
Nguyễn tất Nhiên để hiểu thêm về chữ “thà’ của Thâm Tâm: “Người từ trăm năm/ về
qua sông rộng/ ta ngoắc mòn tay/ trùng trùng gió lộng/ thà như giọt mưa/ vỡ
trên tượng đá/ thà như giọt mưa/ khô trên tượng đá/ có còn hơn không...”. Ta
thấy rằng, khi người yêu qua sông, Nguyễn Tất Nhiên ngoắc mòn tay gọi người yêu
trong vô vọng.
Lúc đó nhà thơ càng dùng
chữ “thà” thì càng đau đớn gấp bội. Tình yêu lúc đó càng mảnh liệt đến nỗi nhà
thơ muốn “Thà như giọt mưa” thì vẫn còn có để đến với em hơn là không chi hết.
“Thà” của Nguyễn tất Nhiên và Thâm Tâm là từ ngữ đã vượt ra ngoài nghĩa của cái
chữ thường tình. Nó khẳng định một tình yêu mảnh liệt với người yêu trong thơ
Nguyễn Tất Nhiên và nó cũng khẳng định một tình yêu mảnh liết với mẹ, với chị,
với em trong thơ Thâm Tâm.
Gần đây có ý kiến cho
rằng “Mức độ nổi tiếng của Tống Biệt Hành không tương xứng với giá trị nghệ
thuật của nó vì các lý do sau:
- Được Hoài Thanh
là nhà phê bình danh tiếng ưu ái giới thiệu trong Thi Nhân Việt Nam. Do đó
người sau vì uy tín của Hoài Thanh và Thi Nhân Việt nam cứ thế ca ngợi, tán
dương theo.
- Được cả chính
quyền miền Bắc và miền Nam Việt Nam cần người lên đường phục vụ cho chế độ nên
giúp sức phổ biến vì lý do chính trị.
- Được đưa vào nhà
trường giảng dạy nên thầy giáo, học sinh cứ tán tụng, không dám bày tỏ ý kiến
đối nghịch vì sợ bị trù dập.”
Nhận xét như thế tôi cho
là quá bất công với Tống Biệt Hành vì:
Hoài Thanh không ưu ái
với nhà thơ Thâm Tâm mà Hoài Thanh chọn Tống Biệt Hành để đưa vào Thi Nhân Việt
Nam với sự công tâm đánh giá nghệ thuật như bao bài thơ của các tác giả khác
thời bấy giờ. Uy tín của Hoài Thanh đủ khẳng định cho Tống Biệt hành có giá trị
nghề thuật cao.
Truyện Kiều của Nguyễn
Du mà còn có người dám chỉnh sửa lại thì Tống Biệt Hành là cái gì mà 75 năm qua
mọi người nhắm mắt tán tụng nó theo Hoài Thanh. Điều đó không thể nếu tự Tống
Biệt Hành không có giá trị ngang tầm với danh của nó.
- Chình quyền miền
Bắc và miền Nam trước 1975 có hàng vạn bài thơ phục vụ cho chế độ mình trực
tiếp và cụ thể, đâu cần chi một bài thơ Tống Biệt Hành nói về một sự ra đi vu
vơ không mục đích rõ ràng.
- Bài thơ được đưa
vào nhà trường tức là được chọn lọc. Thêm một lần nữa khẳng định giá trị nghệ
thuật cao của bài thơ. Nhiều năm qua kể từ khi bài thơ được giảng dạy đến nay,
không có dư luận nào chê trách việc giảng dạy Tống Biệt Hành. Điều đó chứng tỏ
giá trị nghệ thuật của Tống Biệt Hành được đánh giá đúng nên không có sự
phản hồi, phản bác, đối nghịch trong công luận.
Thật ra với thời gian 75
năm, kịnh nghiệm cho ta thấy có nhiều tác phẩm hời hợt, được vinh danh gượng ép
vì một lý do nào đó đã lần lượt mai một hết với thời gian rồi. Riêng Tống Biệt
Hành của Thâm Tâm, nó vẫn còn sống thắm tươi trên diễn đàn văn học và trong
lòng nhiều thế hệ. Nó không chết đâu, và mức độ nổi tiếng của nó rất tương xứng
với giá trị nghệ thuật của chính nó vì Tống Biệt Hành là khúc ca tiễn biệt rất
hay mà tiễn biệt thì ở thời đại nào cũng có xảy ra ./.
Châu Thạch
Chú Thích: Những đọan in đậm là
Châu Thạch nói đến PĐN. PĐN xin phép Châu Thạch cho in đậm để độc
giả dễ theo dõi.
Bài 3: LẠI BÀN VỀ TỐNG
BIỆT HÀNH
(Trao
đổi với nhà văn Châu Thạch)
Cách đây không lâu anh Nguyễn Khắc
Phước có thư riêng mời tôi cộng tác với trang web Văn Nghệ Quảng Trị, một trang
thuần túy văn học nghệ thuật. Trước khi nhận lời mời tôi có bỏ ra vài buổi dạo
qua trang web. Là người làm thơ và bình thơ nên tôi để ý đến những cây bút phê
bình văn học và những bài viết của Châu Thạch đã chiếm được cảm tình của tôi
với cung cách đứng đắn lịch sự, lời văn hòa nhã.
Hôm nay đọc được bài Đọc Tống Biệt
Hành Thơ Thâm Tâm của anh trên Văn Nghệ Quảng Trị (và Văn Đàn Việt) trong đó
anh có nhắc đến mấy đoạn trong một bài viết – cũng về Tống Biệt Hành - của tôi
nên xin phép được trao đổi với anh trong tinh thần “bạn văn” cùng viết trên một
diễn đàn văn học.
Sau đây là những đoạn trong bài
viết của tôi được anh đề cập:
1/
Anh nhắc đến hai đoạn thơ:
Ta biết người buồn chiều hôm trước
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót
Ta biết người buồn sáng hôm nay:
Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…
rồi anh viết: Đoạn này có
tác giả bình thơ nhận xét rằng “không những tầm thường mà lạ còn hơi ‘sến’
nữa.” Theo anh thì: “Lời thơ kể lể ở đây không phải ‘tầm thường’,
không phải ‘sến’ mà nó là dàn nhạc trầm lặng da diết, sau khúc nhạc gầm thét
diễn tả nỗi đau trong lòng nhân vật.”
Theo tôi, hai đoạn thơ đã có những
khuyết điểm sau đây:
- Nói
chuyện “chiều hôm trước” mà dùng trạng từ chỉ thời gian “Bây giờ” là không
chính xác. Muốn chính xác, muốn hay, phải dùng từ khác.
- So
sánh “sen nở nốt” với “dòng lệ sót” rất khập khiễng. Những bông sen nở cuối mùa
và dòng lệ còn sót lại của mấy người chị vừa khóc vừa khuyên em, hai hình ảnh
đó quá xa cách, không tương hợp. Phép “ẩn dụ” không hay.
- Chữ
“dòng” trong cụm từ “dòng lệ sót” giảm giá trị của chữ “sót”.
- “Giời
chưa mùa thu tươi lắm thay” là một câu thơ “vô tích sự” bởi nó lạc lõng,
thừa thãi, không ăn nhập gì với cả đoạn thơ.
- Đọc
hai câu:
Em
nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói
tròn thương tiếc chiếc khăn tay
tôi tưởng tượng trước mắt mình một
em nhỏ, đôi mắt ngây thơ tròn xoe nhìn người anh sắp đi xa, tay cầm chiếc khăn
tay như muốn gói trọn thương tiếc trong lòng mình vào đấy. Ôi! Hình ảnh ấy vừa
khô cứng, vừa “cải lương”, lại vừa không thật; ngây thơ đôi mắt biếc như em nhỏ
thì biết gì mà thương với tiếc; chữ “tiếc” ở đây hoàn toàn sai.
Trên đây là một vài chi tiết khiến
tôi đưa ra nhận xét là hai đoạn thơ “không những tầm thường mà lại còn ‘sến’
nữa.” Anh Châu Thạch cho đó “là dàn nhạc trầm lặng da diết, sau khúc nhạc
gầm thét diễn tả nỗi đau trong lòng nhân vật” là quyền của anh. Tôi dành sự
phán xét sau cùng cho độc giả.
2/
Vế chót của bài thơ như sau:
Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu cay
Có người cho rằng vế thơ này “quá
cứng cỏi, lạnh lùng và vô tình.” Theo anh thì: “Thật ra đây là
một vế thơ rất hay, nó cho thấy bút pháp tài hoa của tác giả.”
Tôi không nghĩ như vậy. Trên bề
mặt chữ nghĩa 3 câu cuối rõ ràng là cứng cỏi, lạnh lùng và vô tình. Hơn nữa, đó
không phải là tâm trạng, cách suy nghĩ của chính người ra đi nói ra mà chỉ là
sự võ đoán của người đưa tiễn. Cho nên nếu nói đến giá trị nghệ thuật thì mấy
câu thơ ấy chỉ như là rượu giả, khó làm vừa lòng những tay sành rượu.
3/
Hoài Thanh không ưu ái với nhà thơ Thâm Tâm mà Hoài Thanh chọn Tống Biệt Hành
để đưa vào Thi Nhân Việt Nam với sự công tâm đánh giá nghệ thuật như bao bài
thơ của các tác giả khác thời bấy giờ. Uy tín của Hoài Thanh đủ khẳng định cho
Tống Biệt hành có giá trị nghề thuật cao.
Tôi đồng ý với anh Châu Thạch là
TBH phải hay, phải có giá trị nghệ thuật ở mức độ nào đó, phải hợp “gu” với
Hoài Thanh thì mới được ông tuyển chọn đưa vào Thi Nhân Việt Nam. Nhưng được
Hoài Thanh tuyển chọn lại là con dao hai lưỡi. Thời gian qua đi, cách nhìn nhận
và đánh giá thơ ca thay đổi, uy tín của Hoài Thanh - đặc biệt lúc ông còn sống
- khiến người yêu thơ e ngại khi phải đưa ra những ý kiến trái ngược hoặc khác
với nhận định của ông. “Sợ” uy quyền của ông cũng có nhưng cái sợ lớn nhất là
sợ bước vào một trận chiến không cân sức với một đối thủ quá mạnh.
Anh Châu Thạch còn viết
rằng: “Truyện Kiều của Nguyễn Du mà còn có người dám chỉnh sửa lại thì
Tống Biệt Hành là cái gì mà 75 năm qua mọi người nhắm mắt tán tụng nó theo Hoài
Thanh.”
Theo tôi, chỉnh sửa một điểm nào
đó trong truyện Kiều không khó vì không bị đè nặng bới một sức ép chính trị tâm
lý nào. Miễn là anh có kiến thức rộng về văn học, thơ ca và đủ tự tin để viết.
“Đụng” vào TBH là “đụng” vào cả một chính sách lớn của nhà nước trong hoàn cảnh
chiến tranh, lúc người chống lưng cho nó vừa có văn tài, vừa có quyền uy ngất
ngưởng trong lãnh vực bình phẩm văn chương.
4/ Chình
quyền miền Bắc và miền Nam trước 1975 có hàng vạn bài thơ phục vụ cho chế độ
mình trực tiếp và cụ thể, đâu cần chi một bài thơ Tống Biệt Hành nói về một sự
ra đi vu vơ không mục đích rõ ràng.
Những bài thơ viết để trực tiếp
phục vụ chế độ (ở miền nam có một số bản nhạc như vậy nhưng thơ thì không
nhiều), đọc lên đã sặc mùi tuyên truyền. Tác giả loại thơ này thường là người
nằm trong bộ máy chính quyền, chức vụ không cao, viết vì công việc, vì “cái
ghế”, vì miếng cơm manh áo. Cả tác giả lẫn tác phẩm đều bị coi thường, khinh
rẻ. Thậm chí đọc phải những bài thơ này có người còn bực bội chửi thề ngay cả
trước mặt công chúng. (Con số hàng vạn của anh Châu Thạch tôi e rằng quá lố).
Chỉ có những bài thơ tác giả có
tay nghề cao, viết bằng trái tim mình, bày tỏ cảm xúc thật của mình nhưng ý tứ
của bài thơ lại tình cờ phù hợp với đường lối, chính sách của chính phủ nên
được phổ biến trong quảng đại quần chúng. Vâng! Chính những bài thơ ấy mới hấp
dẫn người đọc, mới thôi thúc người đọc đi theo, làm theo tiếng gọi của tứ thơ
(hoặc ý thơ). TBH nằm trong số những bài thơ ấy.
5/
Bài thơ được đưa vào nhà trường tức là được chọn lọc. Thêm một lần nữa khẳng
định giá trị nghệ thuật cao của bài thơ. (Điều này không phải lúc nào
cũng đúng.) Nhiều năm qua kể từ khi bài thơ được giảng dạy đến nay,
không có dư luận nào chê trách việc giảng dạy Tống Biệt Hành. Điều đó chứng tỏ
giá trị nghệ thuật của Tống Biệt Hành được đánh giá đúng nên không có sự
phản hồi, phản bác, đối nghịch trong công luận.
Vào trường học là có giáo án, thi
cử. Thử hỏi có học sinh nào dám đem tương lai của mình để đánh đổi lấy một cơ
hội được phản bác điều mình được dạy trong trường lớp? Có thầy, cô giáo nào dám
dạy sai giáo án để phí công bao năm đèn sách ở các trường cao đẳng hay đại học
sư phạm?
Vả lại, nếu người phản bác không
có thực tài, không chọn đúng thời điểm có phong trào, có cách nhìn nhận, đánh
giá thơ ca mới, không có sự hỗ trợ của một vài nhân vật có chức quyền trong
ngành, những ý kiến phản bác sẽ như muối bỏ bể, rơi vào quên lãng.
Giá Trị Nghệ Thuật Của Tống Biệt
Hành
1/ Khuyết điểm
Ngoài những khuyết điểm ở hai đoạn
thơ nói về chị và em TBH còn có những yếu kém sau đây:
- Câu
“Đưa người ta chỉ đưa người ấy” có vẻ ngây ngô và đóng góp rất ít cho
bài thơ.
- Cái
dở nhất của TBH, theo tôi, là có nhiều đoạn người ra đi không được bày tỏ trực
tiếp mà cảm xúc, tâm trạng của anh ta lại do người tống biệt võ đoán và nói hộ.
Độc giả có cảm giác như được Thâm Tâm mời đến thưởng thức món thuốc lá gia
truyền rất ngon, nhưng khi gặp nhau thì chỉ được hút một, hai hơi; sau đó là
ngồi ngửi khói (hút gián tiếp). Lời khuyên “Làm thơ nên viết ở ngôi thứ nhất”
đã bị vi phạm mà không có lý do chính đáng.
2/ Ưu điểm
Dù vậy TBH cũng vẫn là một bài thơ hay. Chỉ với 4 câu đầu tác giả đã khắc họa
một cách tài tình tâm trạng của người đưa tiễn – và với khả năng quan sát tinh
tế, đã “bắt” được nỗi buồn của người ra đi:
Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng
Bóng chiều không thắm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong
Để tả cảnh chia ly 4 câu thơ này có thể hiên ngang đọ sức với bất cứ câu thơ
hay nào của bất cứ tác giả nào trong Phong Trào Thơ Mới.
Cái độc đáo nữa của TBH là Điệu thơ gấp,
lời thơ gắt, câu thơ rắn rỏi, gân guốc, không mềm mại uyển chuyển như phần
nhiều thơ bây giờ. (1)
Đứng bên cạnh những bài thơ có âm điệu du dương như hầu hết thơ mới thời ấy TBH
có dáng dấp độc đáo, gây được sự chú ý ngay từ hình thức bề ngoài của bài thơ.
Cái hay nhất của TBH là - mặc dù nhân vật và khung cảnh khác xa nhau – đã gợi
được không khí hào hùng, bi tráng của cuộc chia ly nổi tiếng trong lịch sử
Trung Hoa: Thái Tử Đan tiễn Kinh Kha sang sông Dịch để ám sát Tần Thủy Hoàng.
Người đọc, đặc biệt là nam nhân, cảm thấy hào khí bốc lên cao ngất, thân này kể
bỏ, gia đình (mẹ, chị và em) cũng coi như không có, vì lý tưởng, vì nước quyết
ra đi để thỏa mãn chí lớn của người trai.
Chí lớn không về
bàn tay không
Thì không bao
giờ nói trở lại
Ba năm mẹ già
cũng đừng mong.
Tôi hoàn toàn đồng ý với Châu Thạch khi anh viết:
Đoạn nầy ý nói người ra đi sẽ không quay về khi chí lớn chưa thành, dầu mẹ
có chết ba năm sau ngày giáp cử cũng không về để tang mẹ được. Những câu thơ ở
vế thơ nầy thật rắn rỏi nêu lên sự quyết tâm của người ra đi vì chí lớn. Lời
thơ như hịch xuất quân, như lời thề non nước.
Tóm lại, nếu đặt ưu và khuyết điểm lên bàn cân thì TBH vẫn là một bài thơ hay.
Ưu điểm rất độc đáo và gây được ấn tượng sâu sắc nơi người đọc. Có những đoạn
thơ thường được ngâm nga trong những buổi họp mặt của thanh niên trước lúc lên
đường. Nhưng khuyết điểm cũng không ít trong đó có cả khuyết điểm căn bản trong
việc sáng tác thơ ca.
Riêng về tứ thơ thì tôi cho rằng tứ thơ của TBH là một thứ dây leo chùm gởi,
phải nhờ vào cái bóng của một “khung cảnh lịch sử” ở tận bên Trung Quốc để có
được sức hấp dẫn người đọc như nó đã có.
Hơn nữa, như đã phân tích
ở trên, rượu trong bữa tiệc thơ TBH là rượu giả; cảm xúc (ngoài hai câu đầu)
không phải là thứ “tông” phát xuất từ chính trái tim người tống biệt mà chỉ là
cảm xúc của người ra đi được người tống biệt đoán ra.
Khách mời của bữa tiệc TBH
tưởng như mình sắp sửa qua sông Dịch để cứu muôn triệu dân lành. Rót rượu đầy
ly, nâng cao và hô một tiếng “dzô” thật lớn rồi uống cạn để thấy hào khí trong
người mình dâng lên cao ngất. Đến khi tỉnh dậy sau cơn say khướt, thấy nhức đầu
một cách khó hiểu nhưng cũng không biết là mình uống phải rượu giả, toàn nước
lã pha cồn.
Hồ Trường (Nguyễn Bá Trác) thì hoàn toàn khác. Khung cảnh thật, rượu thật, tâm
sự được chính tác giả thốt ra trong lúc ngà ngà say, không có bàn tay “gạn đục
khơi trong” của lý trí nên cũng rất thật. Và hào khí, thì dù người đọc có say
hay tỉnh, cũng thấy bốc cao ngất trời và nóng bỏng.
Trong trò chơi bình thơ, với tôi, chê lầm một câu (bài) thơ hay hoặc khen lầm
một câu (bài) thơ dở là một lỗi nặng, ảnh hưởng đến uy tín của người bình thơ.
Tuy nhiên, ở đời ai chẳng có lúc lỗi lầm? Miễn là sau đó mình cố gắng học hỏi
và sửa chữa.
Nhưng bình một bài thơ mà
– vì một lý do nào đó ngoài thơ - thấy một điểm hay mà không dám khen, thấy một
điểm dở mà không dám chê thì theo tôi, là một cái tội, tội với lương tâm mình
và tội với thơ.
Cho nên khi bình thơ, tôi khen chê thẳng thắn đúng với sự hiểu biết và cảm nhận
của mình lúc đó. Vì thế bài viết của anh Châu Thạch đã cho tôi cơ hội đọc kỹ
lại Tống Biệt Hành và giải thích thêm một số chi tiết mà tôi – vì muốn hướng sự
chú ý của độc giả vào những điểm chính – đã bỏ qua. Và chuyện đúng sai xin
nhường cho độc giả phán xét.
Với bài thơ TBH anh Châu Thạch và tôi có vài chỗ ý kiến khác nhau. Đó cũng là
chuyện thường tình trong bình phẩm thơ ca. Trong Văn Nghệ Quảng Trị anh Châu
Thạch có số bài gấp nhiều lần số bài của tôi. Anh là cựu binh, còn tôi là lính
mới.
Cũng may là trên chốn văn
chương nên tôi mới dám mạnh dạn trao đổi với anh. Qua hai bài viết, một của anh
và một của tôi, xin được nói riêng với anh Châu Thạch, cả hai chúng ta đều có
lợi. Và biết đâu những độc giả đọc bài của chúng ta cũng đang rung đùi, gật gù
khoái chí.
Chú thích:
1/ Chữ của Hoài Thanh
Galveston, Texas 10/18/15
PHẠM ĐỨC NHÌ
nhidpham@gmail.com
Bài 4: Câu Chuyện Văn
Chương –Tống Biệt hành
Lê
Mai Lĩnh
TVấn&
BH
Vừa qua, trên trang web
T.Vấn & Bạn Hữu có bài tranh luận giữa hai tác giả CHÂU THẠCH và PHẠM ĐỨC NHÌ về bài thơ TỐNG
BIỆT HÀNH của thi sĩ THÂM TÂM, đã làm tôi NGỨA NGÁY TAY CHÂN,
nên tôi muốn có đôi điều góp ý. Bài viết trong tinh thần CHUYỆN NHƯ ĐÙA, mong
HAI ANH và ĐỘC GIẢ xem cho vui, trong lúc chờ đợi chứng kiến MỸ và TRUNG CỘNG
bắn đạn DỞM và NỔ PHÁO TỊT NGÒI vào nhau
Nhà thơ THÂM TÂM, một
KHUÔN MẶT THƠ mà người nào yêu thơ cũng yêu mến.
Bài thơ TỐNG BIỆT HÀNH là
KINH NHẬT TỤNG TÌNH YÊU cho một thời trai tơ, trai trẻ, trai dậy thì. Kể cả mấy
gái chưa chồng hay chết chồng
Bài thơ TỐNG BIỆT HÀNH là
một KHỐI KIM CƯƠNG NGUYÊN VẸN, chẳng một ai dám đục, đẽo, đạp, đá hay thụi, xéo
hay nậy.
Bài thơ TỐNG BIỆT HÀNH,
khi vui, đọc cho buồn.
Bài thơ TỐNG BIỆT HÀNH,
khi buồn, đọc cho vui
Bài thơ TỐNG BIỆT HÀNH,
khi đói, nó là gạo nấu cơm là nếp nấu xôi.
Bài thơ TỐNG BIỆT HÀNH là
nước khi khát, là cứu tinh cho người vượt qua sa mạc khô cháy
Bài thơ TỐNG BIỆT HÀNH, là
rượu cho những bợm nhậu, là thuốc lào cho những người tù khổ sai Cộng Sản
75 năm nay nó là như thế
và sẽ là như thế, khi trái đất này còn người YÊU THƠ.
Thế nhưng vừa qua, người
anh em tôi, nhà thơ PHẠM ĐỨC NHÌ đã chọn một cách rất “không bình thường” để
phân tích, mổ xẻ TƯỢNG ĐÀI THÂM TÂM TỐNG BIỆT HÀNH:
Ông đã đem BÚA TẠ, KỀM
KINGSIZE, ĐỤC KINGSIZE, XÀ BENG KINGSIZE, THUỐC NỔ QUEEN, BAO TAY PRINCESS,
Ông TRỤC, KÉO, LÔI PHO
TƯỢNG ĐÀI THÂM TÂM TỐNG BIỆT HÀNH ra khỏi TRÁI TIM NHỮNG NGƯỜI YÊU của THÂM TÂM
TỐNG BIỆT HÀNH
Với những lý do của Ông:
Bài thơ Tống Biệt Hành:
1/ Không những bình thường
mà con SẾN.
2/ Nói chuyện chiều hôm
trước mà dùng trạng từ chỉ thời gian “BÂY Giờ” là không chính xác.
(Theo tôi biết, trong văn
phạm tiếng Anh và các thứ ngôn ngữ khác, vẫn có CÁC THÌ: HIỆN TẠI TRONG
QUÁ KHỨ hay QUÁ KHỨ TRONG TƯƠNG LAI.)
3/Chữ “dòng” trong cụm từ
“dòng lệ sót” giảm giá trị của chữ “sót”.
4/ “Giời chưa mùa thu tươi
lắm thay” là một câu thơ “vô tích sự” bởi nó lạc lõng, thừa thãi, không ăn nhập
gì với cả đoạn thơ.
5/ So sánh ”sen nở nốt”
với ”dòng lệ sót” rất khập khễnh.
6/ Đọc hai câu:
” Em nhỏ thơ ngây đôi mắt
biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc
khăn tay “
Hình ảnh KHÔ, CỨNG, vừa
CẢI LƯƠNG, lại vừa không thật, ngây thơ đôi mắt biểc như em nhỏ thì biết gì mà
thương với tiếc
7/ Bài thơ TỐNG BIỆT HÀNH
nói về một sự ra đi vu vơ, không mục đích rõ ràng.
8/ Câu: ”Đưa người ta chỉ
đưa người ấy” có vẻ ngây ngô, và đóng góp rất ít cho bài thơ.
9/ Lời khuyên: ”Làm
thơ nên viết ở ngôi thứ nhất” đã bị vi phạm mà không có lý đó chính đáng.
(PHẠM ĐỨC NHÌ không cho
chúng ta biết LỜI KHUYÊN NÀY CỦA AI. Phải chăng có một ông TỔ SƯ BỒ ĐỀ THƠ
khuyên và chỉ có anh PDN biết.)
10/ Rượu trong bữa tiệc
thơ TỐNG BIỆT HÀNH là rượu gỉa, rượu toàn nước lã pha cồn
Rồi ông kết luận về TỐNG
BIỆT HÀNH :
Dù vậy, TỐNG BIỆT HÀNH VẪN
LÀ MỘT BÀI THƠ HAY.
CHỈ VỚI 4 CÂU ĐẦU TÁC GIẢ
ĐÃ KHẮC HỌA MỘT CÁCH TÀI TÌNH TÂM TRẠNG CỦA NGƯỜI ĐƯA TIỄN Và VỚI KHẢ NĂNG TINH
TẾ ĐÃ BẮT ĐƯỢC NỖI BUỒN CỦA NGƯỜI RA ĐI:
“Đưa người ta không đưa
sang sông
Sao có tiếng sóng ở trong
lòng
Ráng chiều không thắm
không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong
mắt trong”
Để tả cảnh chia ly, 4 câu
thơ này có thể hiên ngang đọ sức với bất cứ câu thơ hay nào của bất cứ tác giả
nào trong phòng trào THƠ MỚI.
Thưa anh nhà thơ PHẠM ĐỨC
NHÌ:
1/Anh nói: TÔI
DÀNH SỰ PHÁN XÉT SAU CÙNG CHO ĐỘC GIẢ
Vậy tôi đề nghị anh NÊN
NÓI LỜI XIN LỖI VỚI ANH CHÂU THẠCH. Bài của nhà phê bình CHÂU THẠCH rất HÀN
LÂM, NGƯỜI LỚN.
2/ Mặc dù anh đã HÀN GẮN
NHỮNG VẾT ĐỤC ĐẼO lên PHO TƯỢNG TỐNG BIỆT HÀNH, nhưng sự MẤT MÁT VẪN CÒN, NIỀM
ĐAU CŨNG CÒN,
vậy anh nên viết bài TẠ
LỖI với độc giả của T.Vấn & Bạn Hữu, rằng anh đã chạm vào tình cảm YÊU THƠ
của họ dành cho THẦN TƯỢNG THÂM TÂM.
Như đã nói trên bài viết,
ĐÂY LÀ CHUYỆN ĐUÀ CUỐI TUẦN, xin mọi người hoan hỉ thứ tha.
AMEN
Lê Mai Lĩnh
Bài 5: VĂN CHƯƠNG ĐÂU PHẢI LÀ
ĐƠN THUỐC
(Viết sau khi đọc Câu Chuyện Văn
Chương của Lê Mai Lĩnh)
Nhận được cái link từ một bạn
văn trong nước với lời nhắn “Nhận thấy có liên quan đến bài viết của anh và anh
Châu Thạch bàn về TỐNG BIỆT HÀNH của THÂM TÂM... nên chép lại đường link để anh
xem và có phản hồi với bài viết (nếu có). Chúc vui.”
http://huongnguyenhoang.blogspot.com/2015/11/cau-chuyen-van-chuong-l-e-mai-linh-nha.html#more
Sau
đó 2 ngày tôi cũng nhận được mail của anh Trương Vấn thông báo về bài Câu
Chuyện Văn Chương trên trang TVấn& BH. Đọc CCVC tôi mường tượng
tác giả của nó là một người yêu thơ cuồng nhiệt theo cách riêng của mình, và …
rất tự tin. Lẽ ra trong tranh luận văn chương phải chú trọng đến đối tượng
tranh luận - ở đây là giá trị nghệ thuật của TBH - thì ông LML chỉ nói phớt qua
vài điểm ông không đồng ý (không dẫn chứng), rồi tự động coi mình là “bên thắng
cuộc”, đề nghị hình phạt cho “bên thua cuộc”.
Dù
vậy, trong bài này tôi chỉ chú trọng việc làm rõ những điểm liên quan đến văn
chương mà ông đề cập, không phải để phân định thắng thua mà tìm sự thông cảm
không những của riêng ông mà còn của cả những độc giả khác quan tâm đến cuộc
tranh luận.
1/ Nói chuyện chiều hôm
trước mà dùng trạng từ chỉ thời gian “BÂY Giờ” là không chính xác.
Theo tôi (LML) biết, trong
văn phạm tiếng Anh và các thứ ngôn ngữ khác, vẫn có CÁC THÌ: HIỆN TẠI
TRONG QUÁ KHỨ hay QUÁ KHỨ TRONG TƯƠNG LAI.
Ở đây tôi không bàn đến văn phạm
tiếng Anh và các thứ ngôn ngữ khác mà chỉ xin đưa ra một thí dụ bằng tiếng Việt
để chứng minh “Bây giờ” trong TBH là không chính xác.
Thứ
Hai tuần trước tôi gặp anh ta ở chùa Vĩnh Nghiêm
Lúc
ấy hoa sen nở đẹp quá.
Nếu thay “Lúc ấy” bằng “Bây giờ”
thì sai. Điều này chắc độc giả ai cũng có thể chấp nhận.
Trở lại TBH: Tôi xin phép đổi mấy
chữ (để làm rõ ý của mình)
Ta
biết người buồn chiều hôm trước
Đang
vào cuối hạ sen nở nốt
Nhóm chữ trạng từ chỉ thời gian (đang
vào cuối hạ) có thể bao phủ một khoảng thời gian từ “chiều hôm trước” cho
đến lúc người đưa tiễn đang “tâm tình” ngày hôm sau (và có thể thêm một thời
gian ngắn nữa trong tương lai). Đưa “Bây giờ mùa hạ” vào thì sai – ít nhất cũng
là lỗi kỹ thuật - vì “độ phủ sóng” của “Bây giờ” hẹp hơn, chỉ là một khoảnh nhỏ
của hiện tại, không thể vươn ngược về “chiều hôm trước”.
2/ Bài thơ TỐNG BIỆT HÀNH
nói về một sự ra đi vu vơ, không mục đích rõ ràng.
Ông LML đã thiếu cẩn
trọng, không đọc kỹ nên đã gán câu văn trên - của anh Châu Thạch - cho tôi. Tuy
nhiên, đó là sự lầm lẫn nhỏ nhặt, không đáng kể. Hơn nữa, chính tôi cũng đồng ý
với nhận xét rất tinh tế ấy của anh Châu Thạch.
3/ Lời khuyên: “Làm
thơ nên viết ở ngôi thứ nhất” đã bị vi phạm mà không có lý đó chính đáng.
(PHẠM ĐỨC NHÌ không cho
chúng ta biết LỜI KHUYÊN NÀY CỦA AI. Phải chăng có một ông TỔ SƯ BỒ ĐỀ THƠ
khuyên và chỉ có anh PĐN biết.)
Trước hết, tôi đã bỏ ra 2
buổi để đọc 69 bài thơ của ông LML trên TVấn& BH (đúng ra là 70 nhưng có
một bài đăng 2 lần) và nhận thấy rằng tất cả 69 bài thơ ấy (vâng! 100%) đều
được viết ở ngôi thứ nhất. (1)
Sau đây là một đoạn trích
trong Mấy Ý Nghĩ Về Thơ của Nguyễn Đình Thi:
Những hình ảnh còn tươi
nguyên, mà nhà thơ tìm thấy, bao giờ cũng mới mẻ, đột ngột lạ lùng. Vì nhà thơ
nhìn bằng con mắt của người đầu tiên. Đó là những hình ảnh mới tinh, chưa có
vết nhòa của thói quen, không bị dập khuôn vào những ý niệm trừu tượng định
trước. Mượn câu nói của một nhà văn Pháp, nhà thơ bao giờ cũng là ngôi thứ
nhất.
Tôi tạm dùng hình tượng
rượu thật, rượu giả để giải thích ý này. Cảm xúc hay tâm sự do chính tác giả
(hay chính nhân vật trong bài thơ) nói ra là rượu thật, còn do người khác suy
đoán rồi nói hộ là rượu giả. Có loại rượu giả cao cấp và loại rượu giả xoàng.
Trong TBH có 2 bình rượu
thật:
a/
Đưa người ta không đưa qua sông
Sao
có tiếng sóng ở trong lòng
Không đưa người qua sông
nhưng sao lòng nôn nao như sóng vỗ. Đây là 2 câu thơ tuyệt vời nói lên tâm trạng
của người đưa tiễn.
b/
Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ
Chí
lớn không về bàn tay không
Thì
không bao giờ nói trở lại
Ba
năm mẹ già cũng đừng mong.
Đây là những câu thơ người
ra đi thì thầm với chính mình – nói như Châu Thạch - lời thơ như hịch xuất
quân, như lời thề non nước.
Còn lại là 4 bình rượu
giả:
a/
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt
Sao
đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Ta cảm được nỗi buồn của
người khi thấy mắt người như chứa cả bóng hoàng hôn. Mắt là cửa sổ linh hồn;
nhìn đôi mắt có thể đoán khá chính xác một người đang vui hay buồn. Do tác giả
chọn được hình rất đẹp, rất thơ nên 2 câu thơ tuy là rượu giả nhưng là loại
rượu giả cao cấp, chỉ người sành rượu mới phân biệt được. Hai câu này kết hợp
với 2 câu đầu thành một đoạn thơ rất hay, thường được đọc, ngâm nga trong các
buổi nhậu, tiệc trà bù khú chuyện văn chương.
b/ Ta biết người buồn chiều hôm trước
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót
c/ Ta biết người buồn sáng hôm nay:
Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…
Hai đoạn b và c cũng là 2 bình
rượu giả. Ngôn ngữ và khung cảnh thơ sến, cải lương nên có thể xếp vào loại
rượu giả xoàng, nhấp môi là nhận được ngay.
d/
Người đi! Ừ nhỉ! Người đi thật
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu cay
Người đưa tiễn cứ
như có bùa phép, thấy được cả những chi tiết nhỏ nhặt trong đầu người ra đi.
Thử hỏi độc giả liệu có tin được “chân tình” của tác giả không? Ba câu cuối rõ
ràng là rượu giả, được nhà hàng nghênh ngang pha ngay trước mặt thực khách.
Trước khi tôi viết về TBH,
trong lúc uống cà phê bình thơ, thấy tôi chĩa mũi dùi vào chi tiết “nói hộ tâm
sự của người khác” trong thơ, một người bạn lên tiếng:
Người
đưa tiễn, người ra đi, rồi mẹ, chị và em, tất tật đều là “con đẻ” của Thâm Tâm;
dĩ nhiên ông ta biết suy nghĩ trong đầu của họ.
Đồng ý là như vậy. Nhưng
khi đã phân công, phân nhiệm thì vai nào phải ra vai đó để phù hợp với vở kịch
của cuộc đời. Người trần mắt thịt mà cứ như là Tiên, Thánh, đọc suy nghĩ, cảm
xúc của người khác như đọc trang giấy trước mặt mình thì coi sao được.
4/Anh nói: TÔI DÀNH SỰ PHÁN
XÉT SAU CÙNG CHO ĐỘC GIẢ
Vậy tôi đề nghị anh NÊN
NÓI LỜI XIN LỖI VỚI ANH CHÂU THẠCH. Bài của nhà phê bình CHÂU THẠCH rất HÀN
LÂM, NGƯỜI LỚN.
Qua bài viết của anh Châu Thạch,
thú thật, chất hàn lâm thì tôi không dám nói chứ về phong cách thì tôi đồng ý
với ông LML là anh có một phong cách rất người lớn: cẩn trọng, đứng đắn và hòa
nhã. Sau mấy bài viết tranh luận về TBH và Nhớ Rừng chúng tôi đã thư qua, thư
lại, trò chuyện trên điện thoại và thấy có một số điểm tương đồng trong tranh
luận văn chương.
Anh đã thẳng thắn nói rằng trong
việc thẩm định giá trị nghệ thuật của một bài thơ việc có ý kiến khác nhau là
thường tình; đó là quyền tự do của mỗi người. Chúng tôi đã kết bạn văn chương
và đã trao đổi với nhau một số điều riêng tư lý thú.
5/ Vậy anh nên viết bài TẠ
LỖI với độc giả của T.Vấn & Bạn Hữu, rằng anh đã chạm vào tình cảm YÊU THƠ
của họ dành cho THẦN TƯỢNG THÂM TÂM.
Trong số độc giả thường
đọc, thưởng thức rồi yêu thơ có rất nhiều người mê thích một bài thơ vì một hay
nhiều lý do rất riêng tư, có khi chẳng ăn nhập gì đến kỹ thuật thơ, cảm xúc thơ
… nói chung là giá trị nghệ thuật của bài thơ.
Nếu bài thơ nhắc đến hoặc
gợi lại những kỷ niệm về khung trời quê hương, mối tình đầu, “những năm tháng
không thể nào quên”, hào khí của thanh niên … thì độc giả sẽ ngây ngất như say
rượu, cảm xúc dạt dào, hào khí dâng cao … và họ sẽ vung tay cho điểm bài thơ
rất rộng rãi.
TBH cũng ở trong trường
hợp đó. Dĩ nhiên, nó không phải là bài thơ dở, nhưng vì những lý do rất “ngoài
thơ” người ta đã quên nhắc đến những khuyết điểm của nó, đã ca tụng nó, cho
điểm nó cao hơn giá trị thực sự của nó rất nhiều.
Nhiệm vụ của người bình
thơ ngoài việc chỉ ra ưu, khuyết điểm của bài thơ còn phải tháo những giá
chống, gỡ những bàn tay nâng đỡ, tước bỏ những ưu ái riêng tư của mình để bài
thơ tự đứng trên đôi chân của nó, tỏa sáng bằng chính giá trị nghệ thuật tự
thân của nó.
Tôi bình TBH (và những bài
thơ khác) cũng với tinh thần đó, cố gắng thuyết phục để độc giả cùng tôi đối xử
công bằng với bài thơ, khen chê đúng mực.
Trường hợp của ông LML thì
đặc biệt hơn. Đọc đoạn ông viết về TBH tôi biết ngay là ông mắc chứng bệnh
“cuồng ái” với bài thơ. Đem cái “tình yêu thơ” kiểu ấy mà bước vào chỗ bình thơ
tranh luận với tôi thì chắc chắn tôi sẽ “từ chết đến bị thương”. Cuối cùng
chỉ bị ông hỏi khó mấy câu và bắt xin lỗi, tạ lỗi với không biết bao nhiêu là
người. Thôi thì như thế cũng là may mắn.
Bệnh của ông LML thì hơi
khó chữa, nhưng đối với bạn đọc của TVấn&BH và tất cả những người yêu thơ
khác, tôi hy vọng là qua mấy bài tranh luận về TBH quý vị cũng vẫn yêu mến bài
thơ nhưng sẽ đối xử với nó công bằng hơn.
Riêng về việc ông LML yêu
cầu tôi xin lỗi anh Châu Thạch và TẠ LỖI với bạn đọc của trang TVấn& BH tôi
xin được cho qua vì nó ngây ngô, trịch thượng và … quá vô duyên.
6/Ông đã đem BÚA TẠ, KỀM
KINGSIZE, ĐỤC KINGSIZE, XÀ BENG KINGSIZE , THUỐC NỔ QUEEN, BAO TAY PRINCESS,,,,
Ông TRỤC, KÉO, LÔI PHO
TƯỢNG ĐÀI THÂM TÂM TỐNG BIỆT HÀNH ra khỏi TRÁI TIM NHỮNG NGƯỜI YÊU của THÂM TÂM
TỐNG BIỆT HÀNH
Theo
ngôn ngữ của ông LML thì mỗi người yêu thơ đều có một tượng đài trong tim cho
mỗi bài thơ mình yêu thích. Tùy cách hiểu và đánh giá của mỗi người, tượng đài
ấy lớn nhỏ khác nhau.
Có
người đọc thơ để thưởng thức, có người đọc để phê bình. Tôi thuộc loại người
thứ hai nên những điều ông LML trách tôi cũng có phần đúng. Tôi đã dùng đủ loại
dụng cụ ông nói ở trên để đục đẽo hầu có được một tượng đài – mà theo tôi -
đúng với kích cỡ của TBH.
Tôi không có khả năng trục tượng
đài ra khỏi trái tim của người yêu thơ để đưa vào chỗ ấy một tượng đài khác.
Tôi chỉ ước mong những bài viết của mình đủ thuyết phục để có được một vài
người yêu thơ tự làm công việc thay thế đó trong tim họ.
KẾT LUẬN
Ở
phần đầu ông Lê Mai Lĩnh xác định: “Bài viết trong tinh thần Chuyện Như Đùa” và
ở phần cuối ông nhắc lại: “Đây là Chuyện Đùa Cuối Tuần, xin mọi người hoan hỉ
thứ tha.” Đồng ý trong “chuyện văn chương” có những vùng đất dành riêng cho óc
khôi hài (sense of humor) và ngay cả những bài viết chính luận nghiêm túc vẫn
có thể có câu, đoạn ẩn chứa những nụ cười ý nhị. Ngồi vào bàn bình thơ, người
viết không nhất thiết phải bỏ lại bên ngoài óc hài hước hay cách hành văn dí
dỏm của mình.
Có điều chắc chắn là bình
thơ không phải chuyện đùa. Người bình thơ, ngoài kiến thức, tài năng còn
phải có “tâm” với thi ca và nhất là phải có thái độ của người lớn: đứng đắn,
nghiêm túc, có trách nhiệm với lời khen chê của mình. Khen chê một câu thơ, một
bài thơ là do nhận định chủ quan của người viết phê bình – không phải lúc nào
cũng đúng nên dĩ nhiên, chưa phải là kết luận chung cuộc. Sự khen chê ấy còn
được cân nhắc, lượng giá (có khi soi mói) của nhiều cặp mắt phê bình khác.
Không phải cứ ngứa ngáy tay chân
là nhảy xổ vào cuộc tranh luận thơ ca của người khác, nói vung tít mẹt rồi chắp
tay xin hai chữ đại xá. Hơn một trăm năm trước Trần Tế Xương đã viết hai câu
thơ về bác Cử Nhu:
Văn
chương đâu phải là đơn thuốc
Chớ
có khuyên xằng chết bỏ bu.
Với những người Bình Thơ hoặc đang
tranh luận về giá trị nghệ thuật của thơ, hai câu đó bây giờ vẫn đúng.
Texas 11/2015
Phạm Đức Nhì
nhidpham@gmail.com
CHÚ THÍCH:
1/
Hôm nay (11/14/2015) đọc bài thơ mới của ông LML (Những Ngày Tôi Muốn Chết)
trên TVấn& BH, tôi thấy nó cũng được viết ở ngôi thứ nhất.
PHỤ LỤC 1:
Có trường hợp bài thơ là
một cuộc đối thoại giữa nhân vật chính và người em của mình; bài thơ chấm dứt
bằng câu trả lời của người em. Có người bạn hỏi rằng “Phải chăng tác giả đã
viết bằng ngôi thứ hai?”
Này lặng em ơi, lặng lặng
nhìn
Phải chăng mình ngựa sắc hồng in
Nhẹ nhàng em sẽ buông rèm xuống
Chị sợ bên sông bóng ngựa chìm.
Ngựa hồng đã đến bên hiên
Chị ơi, trên ngựa chiếc yên ... vắng người.
(Mòn Mỏi, Thanh Tịnh)
Theo tôi, cảm xúc của người chị (ngôi thứ nhất) vẫn là chính. Độc
giả theo dòng cảm xúc từ đầu bài thơ đã hiểu được tâm trạng mòn mỏi đợi chờ tình
quân của chị cho nên khi đọc 2 câu trả lời của người em - chỉ làm nhiệm vụ cung
cấp thông tin - đã đồng cảm với sự tuyệt vọng và nỗi buồn đau vô bờ bến của
người phụ nữ đáng thương này. Thủ pháp Show, Not Tell của Thanh Tịnh rất tài
tình và đã đạt hiệu qủa tối đa.
Cách Hành Xử Rất Đàn Anh Của Lê Mai
Lĩnh
(Năm năm sau cuộc tranh luận về bài thơ Tống
Biệt Hành anh Lê Mai Lĩnh và tôi có một cuộc đối thoại ngắn dưới một bài bình
thơ trên Facebook như sau:
Tôi
còn nợ anh món nợ TỐNG BIỆT HÀNH, nghĩa là sau nầy nghĩ lại, tôi thiển cận, nghĩa là anh ĐÚNG tôi SAI
.
Hì hì
Thôi,
vụ Tống Biệt Hành, chúng ta “bắt tay” cho vui vẻ.
Tôi cũng thích lối phản biện văn chương của anh – rõ ràng, mạnh
mẽ và “độc”.
OK. Bắt tay. Cảm ơn anh.
Lâu nay tôi vẫn lấn cấn đó
Sau
5 năm mới có cuộc đối thoại ngắn ngủi đó kể cũng hơi lâu. Nhưng đây là những lời
chân tình của một bậc đàn anh trong giới văn chương như anh Lê Mai Lĩnh thì thời
gian chờ đợi kể cũng đáng.
Nói
là nói vui vậy thôi chứ chả ai cứ sau mỗi lần tranh luận lại ngồi … chờ đợi.
Cái vui ở đây là được thấy cách hành xử cao thượng của một nhà thơ, nhà văn kỳ
cựu, có máu mặt.
Phạm
Đức Nhì xin được bày tỏ lòng ngưỡng mộ và cảm phục.
Comments
Post a Comment